
Ngài Đại trưởng lão Tam Tạng BHADDANTA SUNDARA tới thăm Việt Nam năm 2014
Xin hoan hỉ thông báo tới quý đạo hữu phật tử và thiện tín nam nữ được biết về CHƯƠNG TRÌNH DỰ KIẾN THĂM HÀ NỘI TỪ 10-10 ĐẾN 15-10-2014 CỦA NGÀI ĐẠI TRƯỞNG LÃO TAM TẠNG 10 như sau:
(Đoàn có 5 người gồm Ngài Đại Trưởng Lão Tam Tạng X+Sư Hộ Giới+2 vị Sư Myanmar hộ độ Ngài+1 kapiya của Ngài)
*Ngày 1 (Thứ Sáu, ngày 10/10/2014-17/09 ÂL): – 23h00: Về đến Hà Nội
*Ngày 2 (Thứ Bảy, ngày 11/10/2014-18/09 ÂL): Ngài và Tăng đoàn thăm Vịnh Hạ Long
*Ngày 3 (Chủ Nhật, ngày 12/10/2014-19/09 ÂL): – 15h00 – 17h00 Ngài thăm chùa Pháp Vân để Phật tử được đảnh lễ và cúng dường Ngài
*Ngày 4 (Thứ Hai, ngày 13/10 – 20/09 ÂL): – 14h00 – 15h30: Thăm và giảng Pháp tại Viện Hàn Lâm Khoa Học Việt Nam
*Ngày 5 (Thứ Ba, ngày 14/10 – 21/09 ÂL): – Ngài thăm chùa Hộ Pháp Đào Xuyên
*Ngày 6 (Thứ Tư, ngày 15/10 – 22/09 ÂL): – Rước Ngài thăm chùa Nội Phật
– 14h30 Rước Ngài lên sân bay Nội Bài
– 16h35 Bay HANRGN chuyến VN957 cất cánh 16h40 hạ cánh 18h10 kết thúc chuyến thăm Việt Nam.
Kính mời các quý đạo hữu và thiện tín nam nữ cùng cung nghênh đón rước và đảnh lễ Quý Ngài cùng Tăng đoàn tại Hà Nội
nguồn: thucduong.vn
NGÀI ĐẠI TRƯỞNG LÃO TAM TẠNG BHADDANTA SUNDARA
(TIPIṬAKADHARA, TIPIṬAKAKOVIDA, DHAMMABHAṆḌĀGĀRIKA)
(Bậc thông Thuộc Tam Tạng, Bậc Thấu Suốt Tam Tạng, Bậc Giữ Gìn Kho Tàng Pháp Bảo)
Ngài Đại Trưởng Lão Tam Tạng Bhaddanta Sundara Sayadaw là một trong 13 vị Tam Tạng xuất hiện trong thế giới đương đại tại Myanmar, và là 1 trong 9 vị Tam Tạng hiện đang còn sống, dạy dỗ, hoằng pháp và lãnh đạo tinh thần Phật giáo Theravāda tại Myanmar nói riêng và thế giới nói chung.
Theo tuần tự xuất hiện của 13 vị Tam Tạng, Ngài là bậc xuất hiện thứ 10, nên các Phật tử Việt Nam thường gọi Ngài với danh xưng tắt là Ngài Tam Tạng 10, hoặc Phật tử Myanmar gọi theo tên quê hương nơi Ngài sinh là Tipiṭaka Myaing Sayadaw.
Trong 13 vị Tam Tạng thì Ngài Tam Tạng 10 là bậc vừa hướng dẫn pháp học Pariyatti, lại vừa hướng dẫn Pháp hành Vipassanā. Hiện nay, tại Trung Tâm thiền viện của Ngài ở Yangon, hằng ngày có từ 150 đến 300 Yogī học và hành Vipassanā, riêng trong các dịp nghĩ lễ lớn thì có trên hàng ngàn Yogī.
Về Pháp học Pariyatti: Ngài là Bậc đạt đến tột cùng của Pháp học Phật Giáo đó là học xong chương trình Tam Tạng (Tipiṭaka).
Về pháp hành Paṭipatti: Ngài đã trải qua trên 30 năm thực hành và hướng dẫn thiền Vipassanā, Ānāpānassatikamaṭṭhānabhāvanā (hơi thở) theo phương pháp của Ngài Sunlun, một trong những bậc Thánh Arahán đương đại tại Myanmar, cho hàng chục ngàn Phật tử khắp Myanmar và thế giới với phương châm Xúc – Tri – Chánh Niệm.
Ngược thời gian cách đây trên 50 năm, vào Thứ 6 ngày 08 tháng 4 Phật lịch 2499 (1955) Ngài đã sinh ra tại ngôi làng Kyauk Daing, Thị Trấn Myaing, Huyện Pakokku, thuộc tỉnh Magwe. Song thân Ngài là ông U Tha Dwun và bà Daw Khin Phwa.
- Năm 12 tuổi, Ngài được song thân hộ độ cho xuất gia Sa di với Ngài Trưởng lão Bhaddanta Kovida, tại tự viện Sien Kan.
-
Năm 15 tuổi, Ngài tìm đến nương nhờ với 2 bậc Trưởng lão nổi tiếng về Nya Wa (Abhidhamma = Vi diệu pháp) là Ngài Sayadaw Nandiya và Ngài Sayadaw Jāgara tại tự viện Tu Maung, thuộc quận Amarapura để học những môn căn bản về Tam Tạng Pāḷi.
-
Từ năm 16 tuổi đến 19 tuổi, Ngài liên tiếp hoàn thành 3 chương trình Pháp học phổ thông Pathama-nge (Sơ cấp), Pathama-lat (Trung cấp) và Pathama-kyi (Cao đẳng).
-
Năm 20 tuổi (1974), Ngài được gia đình thí chủ là Ông U Than và Bà Daw Khin Hla hộ độ xuất gia Tỳ khưu với Thầy Tế Độ là Ngài Sayadaw Kovida, tại tự viện Tu Myaung, thuộc quận Amarapura.
Cũng trong những năm này Ngài đã tốt nghiệp các khoá học Sāsanadhaja Sirīpavara Dhammācariya, Nikāyavinaya Dhammācariya, Atthavisārada Mūlābhidhammika, là những khoá học như chiếc cầu nối căn bản của các kỳ thi pháp học Tam Tạng.
- Năm 20 tuổi (1974), Ngài đạt được danh bằng Dīghabhāṇaka, thuộc lòng Tạng Kinh (Dīghanikāya).
Năm 23 tuổi (1977), Ngài đạt được danh bằng Dīghanikāyakovida, thông suốt Tạng Kinh. Trở thành bậc Nhất Tạng.
Năm 25 tuổi (1979), Ngài đạt được danh bằng Vinayadhara, thuộc lòng Tạng Luật. Trở thành bậc thuộc lòng Nhị Tạng, Dvipiṭakadhara. Và cũng bắt đầu kể từ đây, Ngài nhận phận sự hướng dẫn hành thiền Vipassanā tại Đại thiền viện Sun Lun Gu, Yangon.
Năm 34 tuổi (1988) Ngài đạt được danh bằng Vinayakovida, thông suốt Luật Tạng và trở thành bậc Thông suốt Nhị Tạng – Dvipiṭakakovida.
Năm 45 tuổi (1999) Ngài thuộc lòng trọn bộ Vi Diệu Pháp và đạt được danh bằng Tipiṭakadhara, Bậc Thông Thuộc Tam Tạng.
Năm 48 tuổi (2002) Ngài vừa thuộc lòng Tam Tạng, vừa thông hiểu thấu suốt tất cả những gì liên quan đến pháp học Tam Tạng, nên Ngài đạt được danh bằng Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida – Bậc Thông thuộc Tam Tạng, Bậc Thấu suốt Tam Tạng.
Chính Phủ Myanmar đã dâng tặng Ngài Danh Bằng Tam Tạng, cờ, lọng và khuôn dấu với biểu tượng 3 cây lọng tượng trưng cho Tam Tạng. Ngoài ra, Chính Phủ cũng dâng đến Ngài cùng 2 người theo hộ độ Ngài các loại vé thượng hạng của tàu hoả, tàu thuỷ, xe, máy bay và tứ vật dụng hàng tháng.
- Năm 55 tuổi (2009) Chính Phủ dâng lên Ngài Danh hiệu Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika (Bậc Thông thuộc Tam Tạng, Bậc giữ gìn kho tàng pháp bảo của Đức Phật Gotama) Đây cũng là danh hiệu tột cùng trong Pháp học Phật giáo (Pariyattisāsana).
Thật diễm phúc cho những ai được diện kiến, đảnh lễ, cúng dường, hộ độ, nghe pháp, hành thiền và thân cận với một bậc Đa văn xuất chúng như vậy.
Yangon, Myanmar – 2012
Lược dịch: Tỳ khưu Hộ Giới (Ashin Rakkhitasīla.)
nguồn: http://www.luongtuanvu.com
You must be logged in to post a comment.