Lịch sử Phật giáo Nam Tông

Lịch sử Phật giáo Nam Tông Việt Nam

[responsivevoice_button voice=”Vietnamese Female” buttontext=”Bấm Để Nghe Đọc”]

 

Lịch sử Phật giáo Nam Tông Việt Nam

Phật giáo nguyên thuỷ- Nam tông (Theravada) có bề dày lịch sử rất lâu đời, sự truyền thừa được các sử gia thừa nhận là không bị gián đoạn. Điểm ưu việt của nó là truyền bá đến quốc gia nào vẫn giữ được nét văn hoá Phật giáo đặc thù, mà những truyền thống khác rất hiếm có. Phật giáo nguyên thuỷ hiện nay có mặt ở những quốc gia: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Anh, Mỹ, Ý, Úc, Mã Lai, Indonesia,Nepal, Ấn Độ v.v… Điểm đáng nói là tính thống nhất trong truyền thống Nguyên thuỷ, chư tăng tụng kinh bằng tiếng Pali và tiếng bản ngữ , tu hành y cứ theo thánh điển Pali, Tam y và bình bát là tài sản của bậc xuất gia, chỉ ăn ngày một buổi, không ăn phi thời. Bài viết này chúng tôi giới thiệu một vài nét đại cương về Phật giáo Nguyên – Thủy Nam tông Kinh.

Lịch sử Phật giáo Nam Tông

1. Lịch Sử  Du Nhập Phật Giáo Nam tông Việt Nam

Nghiên cứu lịch sử Phật giáo Nam tông Việt Nam, chúng ta thấy có hai hệ phái chính: Phật giáo Namtông Khơme và Phật giáo Nam tông Kinh cùng tồn tại và phát triển  trong ngôi nhà Phật giáo ViệtNam. Nam tông khơme và Nam tông Kinh là hai bộ phận không thể tách rời nhau trong mảnh đất thân yêu Việt Nam, do đó khi nghiên cứu chuyên đề này, chúng ta thấy lịch sử du nhập và phát triển có những giai đoạn như sau:

1.1 Sử du nhập  Nam tông Khơme

Miền Nam Việt Nam xưa kia là lãnh thổ của vương quốc  Phù Nam. Theo sử liệu của Trung Hoa vương quốc này thành lập khoảng thế kỹ 12 trước Công nguyên, nhưng theo những nhà khảo cổ Tây phương dựa vào bia ký khắc trên đá, vách thành đã được tìm thấy dưới lòng đất thì quốc gia này lập quốc thế kỷ thứ 1 sau công nguyên.  Nhưng vương quốc Phù Nam bị Chân Lạp xâm chiếm và tiêu diệt vào cuối thế kỷ thứ 6. Trên bản đồ,  Phù Nam không còn nữa. Trải qua năm tháng nhờ Việt Nam, triều Nguyễn, bảo hộ chống nội loạn và ngọai chiến nên vua Chân Lạp nhượng đất để đền ơn đáp nghĩa vào năm Đinh sửu (1759) (1).

Từ khi lập quốc đến thế kỷ thứ 6 sau Tây lịch do các vua chúa Phù Nam cai trị. Từ thế kỷ thứ 6 đến năm 1759 là các triều đại của vua chân lạp (2) . Nam dinh m?o (1867) Pháp chiếm Miền Nam làm thuộc địa, để phân định hai quốc gia với lối cai trị khác nhau vị toàn quyền Pháp và quốc vương Campuchia ấn định lằn ranh giữa hai nước đồng ký vào bản nghị định ngày 9-7- 1870, do vậy Miền nam có mặt trên bản đồ thế giới dưới tên gọi do thực dân Pháp đặt ra Cochinchinne, gọi là Nam Kỳ . Năm 1945, chế độ thực Dân Pháp sụp đổ, Việt Nam Cộng Hòa ra đời danh từ Nam Kỳ đổi thành Miền Nam Việt Nam. Ngày 30-4-1975 chế độ Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa, đất nước chúng ta thống nhất từ Aûi Nam Quan đến mũi Cà Mau. Người Việt gốc khơme sống trong lãnh thổ Việt Nam cũng  được hưởng quyền tự do bình đẳng như người Việt Nam.

Ngày nay, những nhà khảo cổ  đã phát hiện những cổ vật, tháp, tượng Phật, thần ở Long An, Kiên Giang, Đồng Tháp Mười v.v… có niên đại 530, 400, 300 năm trước công nguyên (3) . Điều đó cho chúng ta thấy rằng những địa điểm trên đã có một nền văn hóa thật sự văn minh và phát triển tại đây.

Đồng thời trong Mahàvamsa, lịch sử truyền bá của Phật giáo thì có nhắc đến phái đoàn truyền giáo sang xứ Suvannabhùmi của vua ASOKA vào thế kỷ thứ III trước công nguyên do hai vị A La Hán Sona và Uttara lãnh đạo. Các nhà sử học thật  khó khăn để thẩm định  ranh giới của địa danh Suvannabhùmi này ở đâu? Nhưng đa số cho rằng cả vùng Đông Nam Á. Cụ thể hơn ông Aymonier cho rằng Phù Nam là  Miền Nam Việt Nam hiện nay. Theo ông Abel Résumat Phù Nam là Miền Bắc Việt Nam (4).  Chính vì thế những quốc gia như Thái Lan, Miến Điện, Lào, Camphuchia và Việt Nam, lịch sử  Phật giáo những quốc gia này đều có ghi nhận là vào thế kỷ thứ III  truớc công nguyên phái đòan vua Asoka có truyền đạo đến đất nước của Mình. Từ đó chúng ta có thể đưa ra những kết quả niên đại Phật giáo du nhập vào Miền Nam Việt Nam.

– Nếu địa danh Suvannabhùmi là tiền thân của đế quốc Phù Nam thì Phật giáo Nguyên Thủy Nam Tông đã có mặt tại Miền Nam Việt Nam vào thế kỷ thứ III trước công nguyên. Chẳng những Miền Nam mà còn cả Miền Bắc, Đồ Sơn – Hải Phòng theo tài liệu lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát dựa vào lịch sử  Trung Quốc có ghi nhận là ở Mẫu Sơn thuộc Hải Phòng có chùa và tháp của phái đoàn vua Asoka xây dựng, Bảo tháp đó tàn phế. Khỏang giữa thế kỷ thứ XI vua Lý Thánh Tông tiếp tục xây bảo tháp Tường Long trên nền tháp cũ và hiện nay bảo tháp đó cũng tàn phế. Theo Phật giáo Việt Việt Nam của Thích Đức Nghiệp  có ghi lại trong  Gia phả Họ Hòang, hiện nay Ông Hòang Gia Mỹ có giữ bài thơ Tháp Sơn Hòai Cổ. Nội dung bài thơ đề cập xuất xứ hai bảo tháp, một tháp vua Asoka, hai tháp vua Lý Thánh Tông (5).

–  Vương quốc Phù Nam xuất hiện vào thời  nhà Châu ở Trung Hoa vào thế kỷ thứ 12 trước Dương lịch, vì có thuyết cho rằng xứ giả Phù Nam có gởi phái đoàn sang trung hoa. Nhưng thuyết này không được các sử gia thừa nhận, vì không có bằng chứng cụ thể. Vào thế kỷ thứ 1 sau công nguyên, vua Kaundinya cưới công chúa Thủy Tề Soma, có thuyết cho là cưới công chúa Lieou- Ye và lập nên đế quốc Phù Nam. Đời vua này chúng ta không thấy dấu vết Phật giáo. Nhưng đến đời vua Kaundinya Jayavarman, ông  (lên ngôi năm nào không rõ nhưng băng hà 514) gởi thiền sư Nagasena sang Trung Hoa cầu quân tiếp viện dể chống lại quân Chiêm Thành (Lâm Ấp) , bị vua tàu từ chối. Theo lá Sớ nhà vua trình lên Triều Ðình Bắc Kinh thì Phật giáo Nguyên Thủy- Nam tông  rất thạnh hành ở Phù Nam. Đồng thời vua có gởi hai thiền sư tên Mandrasena và Sanghapala đến Trung Hoa dịch kinh Phật bằng Phạn ngữ  (6) . Căn cứ nguồn sử liệu đó, chúng ta tin chắc rằng Phật giáo Nguyên thủy đã có mặt ở Miền Nam Việt Nam chúng ta dưới triều vua đó. Tên ba vị thiền sư trên, chúng ta nhận thấy là tiếng Pàli. Truyền thống Phật giáo nguyên thủy tên chư Tăng thường sử dụng tiếng Pàli. Tóm lại, nói một cách nghiêm túc, thời kỳ vương quốc Phù Nam dưới triều vua Kaundinya Jayavarman Phật giáo Nguyên thủy- Nam tông rất thạnh hành.

Lịch sử Phật giáo Nam Tông Việt Nam

– Từ thế kỷ thứ 6 đến năm 1759 vương quốc Phù Nam do vua Chân Lạp cai trị. Theo lịch sử Camphuchia vào thế kỷ thứ 8 phân chia quốc gia thành hai: Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp, thủy chân lạp thuộc hướng nam là Miền nam Việt Nam, lục chân lạp hướng bắc tức Camphuchia. Dân số người Việt gốc Khơme ở đây quá ít, đồng hoang cỏ dại. Theo thống kê của người Pháp năm 1862 thì tổng số người Việt gốc khơme 146.718 người, so với người Việt 1.732.316 người (7). Trong 11 thế kỷ chiếm đất Phù Nam  vua  thủy chân lạp  không có kế họach gì để phát triển vùng đất này, ngọai trừ xây ngôi bảo tháp ở Đồng Tháp Mười. Điều cho thấy rằng Phật giáo thời đó vẫn có vị trí mạnh mẽ trong xã hội. Đất hoang, người dân ít mà xây dựng bảo tháp tôn giáo là một điều hiếm có. Thực ra Phật giáo nguyên thủy thời kỳ Phù Nam và thời kỳ Thủy Chân Lạp không có gì khác biệt, vì Phật giáo Nguyên thủy chư tăng hành trì giáo pháp thống nhất nhau.

Những ngôi chùa Nam Tông Khơme ở Miền nam Việt Nam có niên đại nhiều thế kỷ qua và tồn tại đến hôm nay. Cụ thể là chùa Samrông Ek ở tỉnh Trà Vinh  xây dựng vào năm 1642 (Phật lịch 1185), chùa Sanghamangala xây dựng hơn 600 năm (8)

1.2  Sử du nhập Nam tông Kinh

 Theo thời điểm cận đại, phật giáo nam tông du nhập  Việt Nam vào năm 1939 từ Campuchia, do phái đoàn truyền giáo của Hoà Thượng Hộ Tông. Những vị trong phái đòan : Hòa Thượng Thiện Luật, Hòa Thượng Huệ Nghiêm, Hòa Thượng Hộ Tông. (9)  Đây là những vị hòa thượng có mặt đầu tiên tại việt nam để hoằng dương chánh pháp. Thời gian này Hòa Thượng Bửu Chơn tu thiền ở Nam Vang, nhưng vào mùa an cư  kiết hạ, ngài được nhóm Phật tử Nguyễn Văn Hiểu mời về Việt Nam nhập hạ và hoằng pháp.

 Về phía cư sĩ, có cụ Nguyễn Văn Hiểu, Văng Công Hương và cụ Quyến là những phật tử có công đầu tiên tìm đất xây chùa để Chư Tăng có nơi hoằng pháp. Địa điểm quý Cụ tìm xây chùa đó là khu rừng nằm trong địa bàn Gò Dưa, Thủ Đức, chu vi khoảng hơn 2 mẫu Tây, thiên nhiên rất đẹp, phong cảnh rất u tịch, thật xứng với những vị chân tu sống đời phạm hạnh. Nguồn gốc đất ở đây là của Oâng Bà Bùi ngươn Hứa. Gia Đình của Oâng Bà giàu có nên khi thấy nhóm cư sĩ của cụ Nguyễn Văn Hiểu tìm đất xây chùa để cúng dường Tam bảo, xúc động trước đạo tâm của nhóm cư sĩ nên Oâng bà bán toàn bộ khu đất đó cho Phật giáo Nguyên thuỷ, với giá bán chỉ 1 đồng danh dự. Chùa được xây dựng với tên gọi là chùa Bửu Quang ( Ratanaramsyarama) .

Ngày 15 tháng 4 năm 1940, phái đòan truyền giáo của HT. Hộ Tông và nhóm cư sĩ Nguyễn Văn Hiểu thỉnh đức vua Sải Chuôn Nath và 30 vị Hoà Thượng,  Thượng Toạ nguời Campuchia sang việt nam đến chùa Bửu Quang để thực hiện nghi thức kết giới Sima theo truyền thống phật giáo nguyên thuỷ (10) . Trong đòan có ba vị sư người Việt Nam: Hoà Thượng Thiện Luật và Hoà thượng Huệ Nghiêm và Hòa Thượng Hộ Tông, sau lễ kết giới Sima Hoà thuợng Huệ Nghiêm được chư tăng đề cử thuyết pháp để giải thích cho Phật tử hiểu về ý nghĩa buổi lễ Kết giới Sima.

Năm 1945, phái đòan truyền giáo Hộ Tông tiếp độ thiện nam Dương Văn Thêm và thành lập chùa Giác Quang tại Bình Đông- Chợ Lớn (11). Thiện nam Dương Văn Thêm hoan hỷ với Phật giáo Nguyên thủy và xuất  gia với pháp danh Tỳ Khưu Giác Quang. Ngài Giác Quang là một trong bảy vị chư tăng đệ đơn thành lập giáo hội Tăng già nguyên thủy Việt nam vào năm 1957. Chùa Giác Quang là ngôi chùa thứ hai của phật giáo nguyên thủy nam tông người kinh. Ngài Giác Quang là vị trụ trì đầu tiên. Tại đại hùng bửu điện này đã đào tạo rất nhiều nhân tài cho Giáo hội Nguyên thủy trước năm 1975 và sau năm 1975. Cụ thể là Hòa Thượng Tịnh Tuệ, Hòa Thượng Giác Nhân, Thượng tọa Giác Minh, Thượng tọa Tịnh Giác v.v…

 Năm 1950, phái đòan truyền giáo Hộ Tông và cụ Nguyễn Văn Hiểu  thành lập chùa Kỳ Viên (12). Tại đây Quý ngài truyền bá chánh pháp một cách hữu hiệu và có kết qủa. Nhờ vậy tổng hội Cư sĩ và Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam được thành lập tại chùa kỳ viên vào năm 1957. Chùa Kỳ Viên mặc nhiên trở thành trụ sở Trung ương của Tổng hội Cư sĩ và Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy ViệtNam.

 Nhờ phái đoàn truyền giáo của Hoà Thượng Hộ Tông và nhóm cư  sĩ Nguyễn văn Hiểu thành lập Tổng Hội và Giáo hội năm 1957, thế nên tồn tại cho đến ngày hôm nay. Hiện nay có khoảng 60 ngôi chùa, 400 Chư  Tăng và 300 Ni trên toàn quốc (13).hững Trung Tâm Hoằng Pháp Đầu Tiên

2.1 Trung Tâm Hoằng  pháp Nam tông khơme

Vương quốc Phù Nam còn lại 3 tấm bia để chứng minh một thời vàng son của nó đã đi qua: 2 tấm chạm hình thần Vishncu tìm thấy ở Việt Nam, 1 tấm chạm hình Phật tổ đào được ở Bati phái nam thành Camphuchia. Đều đó cho thấy Phật giáo và Aán giáo cùng tồn tại song song với nhau. Vua Kaundinya Jayavarman  gởi thiền sư Nagasena sang trung hoa cầu quân tiếp viện để chống Chiêm Thành và bị từ chối. Vua cung gởi hai thiền sư  Mandrasena và Sanghapala sang trung hoa để dịch kinh chữ phạn. Việc kiến tạo ngôi bảo tháp  Đồng Tháp Mười. Những sự kiện trên đủ chứng minh Phật giáo nguyên thủy rất mạnh, chắc chắn có khả năng nhiều trung tâm hoằng pháp của Phật giáo Nguyên thủy thời đó.

Việc  gởi thiền sư Nagasena sang trung hoa để cầu quân tiếp viện chống Chiêm Thành là dấu hiệu cho chúng ta thấy Phật giáo thời đó có khả năng là quốc giáo. Tại sao triều đình không chọn ai khác mà chọn thiền sư? phải chăng thiền sư là quốc sư ? Việc đại sự của quốc gia cử người di ngoại giao mà cử thiền là một điều hiếm có. Sự kiện đó chẳng khác nào Phật giáo Việt Nam của chúng ta thời Lý và thời Trần.

Nếu giáo hội phái hai thiền sư  Mandrasena và Sanghapala sang trung hoa dịch kinh là chuyện bình thường, nhưng ở đây vua phái đi. Điều đó cho chúng ta những suy nghĩ như sau: Phật giáo rất phổ thông thời đó, vua thành kính chư tăng thì người dân phải cúi đầu quy ngưỡng. Chắc chắn thời đó phải có trường lớp can bản trong một thời gian khá dài để đào tạo những thiền sư này. Được như thế thì những vị này mới có kinh nghiệm kiến thức đời và đạo để được nhà vua tin tưởng giới thiệu sang nước bạn dịch kinh.

Người Việt gốc khơme ở Miền Nam Việt Nam con số rất khiêm tốn, thế nên việc kiến tạo ngôi bảo Tháp Đồng Tháp Mười là một điều khó thực thi. Như vậy công trình này phải có sự tham gia bảo trợ của quốc vương. Chứng tỏ số lượng Tăng già và chùa chiền thời đó không quá ít.  Những thành quả chư tăng hoằng pháp thời xưa như thế,  nên  những ngôi chùa có niên đại khá lâu trong cộng đồng người Việt gốc khơme như  Samrông Eùk,  Sanghamanghala,  v.v… tồn tại cho đến ngày nay trên mãnh đất thân yêu Việt Nam.

2.2 Trung Tâm Hoằng Pháp Nam tông Kinh

Những  vị trong phái đoàn truyền giáo của Hoà thuợng Hô Tông đều là những vị thiền sư , nên đời sống của các Ngài thích sống nơi thanh vắng, xa làng mạc đô thị để hành thiền. Buổi sáng các Ngài hay trì bình khất thực, buổi chiều hành thiền và giảng đạo cho phật tử có duyên lành với phật pháp. Hình thức trì bình khất thực cũng là một phương pháp hữu dụng trong việc hoằng pháp.

 Đứng về mặt khách quan mà nói lối sống ẩn cư của Quý Ngài cũng giới hạn mặt hoằng pháp, vì phật tử đa số thành phần trí thức đều ở thành thị.

 Tuy nhiên nhờ uy tính và đức độ của Quý ngài nên tiếng lành đồn xa, Giới trí thức thời đó đến Quy Y và làm đệ tử của quý Ngài rất đông. Đầu tiên chỉ có  tổ đình Bửu Quang  (Thủ Đức) là trung tâm hoằng pháp đầu tiên và sau đó chùa Giác Quang (Chợ Lớn), trụ sở Trung ương Kỳ Viên Tự (Quận 3)ï, chùa Bửu Long (quận 9) , Thích Ca Phật Đài (Vũng Tàu), chùa Tam Bảo (Đà Nẵng) chùa Phổ Minh (quận Gò Vấp), chùa  Pháp Quang (Bình Thạnh) là những địa điểm quan trọng của Quý Ngài để dạy thiền và hoằng pháp. Nhờ những địa điểm hoằng pháp đó mới giúp cho giới Phật tử hiểu phật giáo nguyên thuỷ. Những vị pháp sư đầu tiên của phật giáo nguyên thuỷ việt nam là: Hoà Thuợng Huệ Nghiêm, Thiện Luật, Hộ Tông, Bửu Chơn, Giới Nghiêm, Hòa Thượng Hộ Giác,  pháp sư Thông kham v.v….

3.1. Nam tông khơme:

Đa số người Việt gốc Khơme tu theo Phật giáo Nguyên thủy. Phong tục tập quán của xứ này là thanh niên trong đời phải có một lần xuất gia để đền ơn đáp nghĩa cha mẹ, do đó người xuất gia và chùa chiên rất nhiều. Người dân vô cùng kính trọng nhà sư. Người Việt gốc khơme có những giáo phái:

–  Giáo phái Mahànikaya (14)

– Giáo phái Dhammayutta

– Giáo phái Theravada

– Hội Phật giáo Nguyên thủy

a/  Giáo Phái Mahànikaya

Danh từ Mahànikaya là ám chỉ hội chúng đông, chứ không phải là giáo hội hay tông phái khác, vì thật chất người Việt gốc Khơme tu tập thuần túy theo Phật giáo Nguyên thủy Theravàda có nguồn gốc từ Ấn Độ và Tích Lan. Kinh văn tu hành y cứ theo Tam tạng Pàli. Aên ngày một buổi, không  ăn phi thời. Tỳ kheo xuất gia phải thọ 227 giới luật, điểm chú ý là không có tỳ kheo Ni, chỉ có Tu Nữ thọ 8 giới hoặc 10 giới. Chánh điện thường tôn thờ Phật Thích Ca, không có Phật bà Quan Aâm. Đa phần Phật giáo nguyên thủy truyền bá đến quốc nào cũng thống nhất nghi lễ và hành trì như thế.

Thời kỳ đầu của Phật giáo nguyên thủy trên vùng  đất này chưa tìm thấy nguồn tư liệu nào tổ chức giáo hội và tăng đoàn, nhưng chắc chắn Phật giáo nguyên thủy thời kỳ Phù Nam giáo hội tổ chức  khá quy mô và chặt chẻ. Bởi thế mới có những thiền sư tài giỏi như thiền sư Nagasena. Điểm lưu ý là Phật giáo nguyên thủy thearavada từ lúc du nhập cho đến  cuối thế kỷ thứ 19 Phật giáo Đại thừa vẫn tồn tại song song với Phật giáo nguyên thủy Theravada. Riêng Phật giáo Theravada có hai giáo phái Mahànikaya và giáo phái Dhammayutta.

b/  Giáo Phái Dhammayutta

Sở dĩ có hai giáo phái đó là vì vào cuối thế kỷ 19 có một vị trưởng lão tên Preah Saukonn bất mãn trong tăng đòan nên bỏ sang thái lan tu hành và thành lập giáo hội Dhammayutta, nghĩa là chánh pháp. Ngài về Campuchia truyền bá giáo phái đó vào năm 1864. Điểm đặc biệt của phái này là hòang gia theo ủng hộ và xuất gia, vì thế nên trở thành một giáo phái quan trọng. Sự xuất hiện của danh từ dhammayutta – đúng chánh pháp  của trưởng lão Preah Saukonn, nhưng những người xuất gia theo Phật giáo nguyên thủy xưa nay vẫn chiếm ưu thế đông đảo nên mới có danh xưng là Mahànikàya – phái đông người.

Thật ra hai giáo hội này về mặt  kinh điển và nghi lễ hòan tòan giống nhau, nhưng về hình thức thì có những điểm dị biệt với  giáo phái Mahànikaya:

– Tự cho mình là tu đúng chánh pháp. Không sửa đổi một điều nhỏ nhặt trong Pháp và Luật như phái  mahànikaya, tự hào giáo phái của mình là có hoàng tộc gia nhập.

– Khi đi khất thực bình bát để trần trụi, không phải như giáo phái Mahànikaya có dây và áo bát. Phái dhammayutta quan niệm là giữ đúng luật, vì đức Phật thời xưa cũng thế chỉ có khăn lót bát cho đỡ nóng, chứ không như  phái Mahanikaya chế thêm dây và áo bát cho tiện  việc khất thực.

– Đọc kinh pali không đọc chữ ia đúng giọng Pali  Ấn Độ và Tích Lan, còn phái  mahanikaya đọc kinh pali theo thổ âm của ngôn ngữ  mình, nên phải có ia. Ví dụ: Chữ Dhamma, phái Dhammayutta đọc là  Tham ma, còn phái mahanikaya đọc là tham mia. Như thế chúng ta thấy sự khác biệt hai phái là như thế, sự khác biệt đó không phải là Pháp Luật căn bản của đức Phật mà là quan niệm bất động. Tuy nhiên hai phái vẫn trung thành với lời dạy của đức Phật.

 Vào năm 1900, hoàng gia Campuchia cử một nhà sư  giáo phái Dhammayutta sang Việt Nam truyền đạo và ủng hộ những ngôi chùa nào chấp nhận  bỏ giáo phái Mahànikaya theo giáo phái của mình.  Thành quả cho thấy là đến năm 2004 tại An Giang con số chùa thuộc phái Dhammayutta được 21 ngôi(15). Điểm lôi cuốn cho thấy, ngôi chùa PreyVeng thuộc Châu Đốc  đã xây dựng hơn 300 năm lại đăng ký chuyển giáo hội từ Mahànikaya sang Dhammayutta. Tuy giáo phái này ít so với với phái mahanikaya nhưng vẫn có tổ chức độc lập và có hội đồng trưởng lão để chỉ đạo đường hướng họat động cho 21 chùa, trụ sở đặt tại chùa PreyVeng.  Giáo phái này tồn tại cho đến ngày hôm nay và hiện nay là thành viên  của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

c/ Giáo Phái  Theravada Cư Sĩ

Danh từ theravada xuất hiện trong lịch sử Phật giáo vào khoảng 100 năm sau khi đức Phật viên tịch, lý do là bất đồng 10 điều giới luật trong tăng đoàn, phái không giữ 10 điều phi giới luật gọi là Đại Chúng Bộ –  Mahasanghika và phái gìn giữ  giới luật gọi là Trưởng Lão Bộ – Theravada. Đó là nguyên nhân bất hòa đầu tiên trong Tăng gìa. Thế nên những người tu theo phái theravada rất gần gũi và trung thành với lời Phật dạy, thường gọi Phật giáo Nguyên thủy. ø. Kể từ đó Phật giáo có hai phái.  Hai giáo phái này bắt đầu lên đường truyền đạo, giáo phái Theravada truyền đạo sang hướng Nam gọi là Nam tông, giáo phái Mahasanghika truyền đạo sang hướng Bắc gọi là Bắc Tông. Nam và Bắc tông ở đây là danh từ địa lý. Thật ra hai giáo phái này về mặt Pháp Luật của đức Phật hoàn toàn tu hành  giống nhau, nhưng chỉ khác 10 điều giới luật thôi. Nói một cách nghiêm túc, tất cả những nước tu theo Phật giáo Nam tông – theravada, như  Ấn Độ, Tích Lan, Thái Lan, Lào, Campuchia v.v… đều tu theo giáo phái Theravada.

Người Việt gốc Khơme thành lập giáo hội này chính là ông Sơn Thái Nguyên. Ông là công chức hòang gia chính phủ Campuchia, nghỉ hưu năm 1954(16) . Năm 1957, ông thông báo thành lập giáo phái theravada. Nhưng  Bộ Nội Vụ thời ấy vẫn không công nhận nguyện vọng và đơn xin của Ông.

Nếu căn cứ theo danh từ Theravada thì chúng ta có một số nhận định về giáo phái này:

– Ông  Sơn Thái Nguyên là công chức cao cấp của hoàng gia Campuchia, ông thực hiện công việc ấy chắc chắn phải có một số hậu thuẩn của chư Tăng và Phật tử. Với mục đích là phát huy Phật giáo theravada của người Việt gốc Khơme, chứ không phải thống nhất  để truyền bá những tư tưởng mê tín dị đoan, phi pháp và phi luật của đức Phật.

Điều đáng mừng năm 1963, Viện Hóa Đạo – Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất công nhận giáo hội Theravada Cư sĩ của ông Sơn Thái Nguyên thành lập và xem giáo hội này đại diện Cư sĩ Việt gốc Khơme tại Trung Ương.

d/  Hội Phật Giáo Nguyên Thủy

Hội Phật Giáo Nguyên Thủy của người Việt gốc Khơme ở Vĩnh Bình, nay là Trà Vinh  được Bộ Nội Vụ cho phép thành lập theo nghị định số 1498-BNV/K5 ngày19-11-1960 (17). Mục đích của hội là kết thân trong giới Phật giáo và người Phật tử để chia sẻ tinh thần lẫn vật chất. Ngoài Phật sự trong đạo, hội còn  giúp chính quyền đương thời giáo dục công dân theo đường hướng của chính phủ. Hội cũng là gạch nối giữa chính phủ và người Việt gốc khơme, thường Việt gốc khơme có những nguyện vọng hội  đại diện  đề xuất lên chánh phủ.

Cách tổ chức của Hội lấy căn bản đường lối tổ chức của Hội Đồng Kỹ Luật Sư Sãi thời pháp thuộc, đồng thời Hội bầu một vị Sải Cả Mekon để điều hành Phật sự trong Đạo, còn Ban Quản Trị điều hành Phật sự thế tục. Hội Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như Giáo Phái Theravada đều  giống nhau ở điểm là thống nhất Hội Đồng Sư Sải vào một giáo phái. Khuyết điểm của Hội là trong thời gian họat động Ngài chủ tịch không làm tròn bổn phận của mình (thiếu tư cách đạo đức), tạo nên sự bất mãn trong nội bộ giới Phật giáo. Năm 1962 Ngài chủ tịch bị hạ bệ,  nhưng chánh quyền địa phương vẫn không giải quyết sự phức tạp ấy.

Thay đổi Ban Quản Trị mới, Hội họat động khả quan hơn. Hội mở được hai trường Tiểu Học, một Trung Học  Pali , tổ chức một khóa bồi dưỡng Hoằng Pháp để hoằng dương chánh pháp của đức Phật , đồng thời giúp chánh  phủ tuyên truyền đường hướng của nhà nước.

Sau năm 1975 đến nay, Hội chỉ họat động trong phạm vi tỉnh Trà Vinh (Vĩnh Bình) song song với giáo phái Theravada ở tỉnh Lỵ. Tỉnh Vĩnh Bình có thêm một Hội Đồng Kỹ Luật của giáo phái Theravada và một Hội Đồng Cư Sĩ tạo nên sự không đòan kết trong nội bộ Phật giáo.

 Năm 1981 tất cả các giáo phái này đều là thành viên để thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

 3.2. Nam Tông Kinh

3.2.1 Thành lập Tổng  Hội  Phật giáo Nguyên thuỷ?

Trong bước đầu khai sơn Phật giáo Nam tông Kinh, các vị Hòa thượng chỉ quan tâm đến việc tu hành và hoằng dương chánh pháp, nên các ngài ít chú trọng đến việc tổ chức Giáo hội. Hơn nữa trong giai đoạn  này Tăng già chưa đông đảo, các vị còn bận nghiên cứu và phiên dịch kinh điển hoặc du học tại các nước Phật giáo Nam truyền, do đó các ngài chưa nghĩ đến việc thành lập Giáo hội. Trong khi đó quý cụ cư sĩ nhất là cụ Nguyễn văn Hiểu ao ước hợp thức hóa Phật giáo Nguyên thủy để quý cụ Cư sĩ và Tăng già về sau tiện bề hành đạo và hoằng pháp lợi sanh trên toàn lãnh thổ quốc gia. Do đó cụ Nguyễn văn Hiểu cùng một số bạn bè đã soạn thảo điều lệ, nội quy và các cụ đệ đơn ngày 10/6/ 1956 xin phép thành lập hội Phật giáo Nguyên thủy Việt nam , đến ngày 14/5/1957 mới được chánh quyền phê chuẩn đồng ý cho hội hoạt động (18). Ban sáng lập Hội và dự thảo Bản Điều Lệ:

1.      Ông Nguyễn Văn Hiểu

2.      Ông Trương văn Huấn

3.      Ông Trần văn Cầm

4.      Ông Trần văn Nhân

5.      Ông Trần Văn Nhơn

6.      Ông Huỳnh Công Yến

7.      Ông Đặng văn Chất

8.      Ông Đàng văn Ngộ 

Ban này thành lập là do cụ Nguyễn văn Hiểu chủ trương, thực hiện tại Sài Gòn vào ngày 10 tháng 6 năm 1956 (19). Với tác ý của cụ là hợp thức hóa Hội Phật giáo nguyên Thủy Việt Nam, để hỗ trợ Giáo hội tăng già nguyên thủy Việt Nam hoằng dương chánh pháp hữu hiệu.  Danh sách tám cụ trên đều là những thành phần trí thức và có địa vị trong xã hội thời đó,  chức vụ của quý cụ là Giáo sư, giáo viên, công chức và thư ký thời đó. Họ đến với đạo Phật Nguyên thủy rất chân thành và tôn trọng Tam bảo tuyệt đối. Vừa có tâm đạo, vừa có địa vị và trí thức thời đó nên quý cụ thành lập Hội và dự thảo bản điều lệ được Chư Tăng và Phật tử ủng hộ rất cao.

3.2.2 Thành lập Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam

 Trong  năm 1957, nhân dịp cuôùi năm  tín đồ chùa Kỳ Viên thỉnh chư Tăng các nơi về đông đủ để làm lễ sám hối tất niên và cầu nguyện cho quốc thái dân an, từ ngày thứ hai14/1/1957 cho đến ngày chủ nhật 20/01/1957. (20).

Chương trình cuộc lễ như sau:

1/ Ngày 14/1/1957 lễ Trai tăng sám hối, quy y và thuyết pháp

2/ Trong những ngày 15 đến 19/1/1957 trai tăng luận đạo, thuyết pháp

3/ Ngày 20/1 1957 trai tăng, thuyết pháp, bế mạc.

Nhân dịp này thiện nam, tín nữ nhận thấy sự hiện diện đông đủ chư Tăng Việt Nam tại chùa là một cơ hội hiếm hoi chưa từng có, nên đã thỉnh cầu chư Tăng hoan hỷ nghĩ đến việc thành lập Giáo hội Tăng già Nguyên thủy đúng theo luật lệ của chính phủ để hoạt động phù hợp với trào lưu xã hội đương thời.

Trong những buổi luận đạo ngày 14 và 15/01 năm 1957, sau khi thảo luận và tham khảo ý kiến của các bậc tôn túc, chư Tăng đã nhất trí việc lập Giáo hội tăng già để hoạt động Phật sự hợp pháp và hữu hiệu hơn trong việc quản lý nhân sự là cần thiết, vì vậy đã nhận lời thỉnh cầu và đồng ý cử một Ban Lâm thời để soạn thảo bản điều lệ.

Chiều ngày 15/01/1957 lúc 4 giờ tại chánh điện chùa Kỳ Viên có 22 vị Tỳ khưu hiện diện dưới quyền chủ tọa của Hòa thượng Bửu Chơn đã bầu Ban Chưởng Quản Lâm Thời Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam bằng cách bỏ thăm kín, kết quả những vị sau đây đắc cử. Ban Chưởng Quản lâm Thời:

a/ Tăng thống: Tỳ khưu Bửu Chơn

b/ Phó Tăng thống I: Tỳ khưu Thiện Luật

c/ Phó Tăng thống II: Tỳ khưu Hộ Tông

d/ Tổng thư ký: Tỳ kheo Kim Quang

e/ Phó thư ký: Tỳ kheo Giới Nghiêm

f/ Cố vấn I: Tỳ kheo Tối Thắng

g/ Cố vấn II Tỳ kheo Giác Quang

Theo biên bản những buổi lễ ở Chùa Kỳ Viên, Ban này lãnh trách nhiệm soạn thảo một bản dự  thảo Điều lệ và Nội quy gồm 8 chương, 29 điều trước Chư Tăng và thiện tín tại chánh điện Kỳ Viên Tự để thảo luận từng điểm một.

Ngày 20/02 1957 soạn thảo xong, quý ngài đệ đơn xin thành lập Giáo hội, mãi đến ngày 18/12/1957 (21) mới được Bộ Trưởng nội Vụ ông Vũ Tiến huân thừa lệnh Tham Lý Nội An đóng dấu ký duyệt cho Giáo hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam hoạt động theo đạo dụ số 10.

Sau khi có giấy phép thành lập Giáo hội, Ban Chưởng Quản Lâm Thời đã từ chức để mở Đại Hội Khoáng Đại lần thứ nhất bầu Tăng thống và Ban Chưởng Quản chính thức cho Giáo hội Tăng Già Nguyên thủy Việt Nam vào năm 1957. Kết quả là tập thể Chư Tăng đã suy tôn Hòa Thượng Hộ Tông giữ chức vụ Tăng Thống nhiệm kỳ đầu tiên.Và kể từ đây Đức Tăng thống và Ban Chưởng Quản có trách nhiệm điều hành tất cả những công tác Phật sự của Giáo hội theo Điều lệ và Nội quy của GHTGNTVN.

3.1. Tổ Chức Nam Tông Khơme

Trước và dưới thời Pháp thuộc, Phật giáo Nam tông người Việt gốc khơme đều dưới quyền quản lý của vua Sải Campuchia(22). Chư tăng phải đến thủ đô Campuchia học để lấy văn bằng Phật học, để đủ thẩm quyền hành đạo và hoằng pháp. Chùa chiền xây dựng xong phải đệ trình lên vua Sải để xin phép đặt tên. Cơ cấu tổ chức là thành lập một Hội đồng Kỷ luật Sư Sải, Hội đồng này được sự trợ cấp của chánh phủ Hòang Gia Campuchia thời ấy, chính Hội đồng này liên lạc với Vua Sải Campuchia. Cơ cấu  nhân sự của hội đồng:

– 1 vị Mêkon – nghĩa là vị Sải Cả (chư tăng) được tập thể bầu để quản lý 1 tỉnh, thay mặt chư tăng trong tỉnh để giao thiệp với chánh quyển địa phương về mọi phương diện.

– 1 hoặc 2  vị Balakon ( phó sải cả có nhiệm vụ giảng giải giáo lý Tỳ khưu, Sa di, Phật tử  và Học sinh,  phụ trách tổ chức các cuộc lễ tại chùa, sửa chữa và tu bổ chùa chiên )

– 1 vị Vineythorkon ( phụ trách về giới luật cho chư tăng)

– 1 vị Sammouhakon (phụ trách về văn khố )

– 1 vị Lêkhathika (thư ký)

– Vài vị Anoukon (người đại diện Sải cả mỗi quận trong tỉnh)

Cơ cấu tổ chức này cho đến năm 1945 chấm dứt, vì thời Việt Nam Cộng Hòa các tu sĩ Việt gốc Khơme không đuợc liên lạc với Giáo Hội Campuchia. Tuy nhiên các sư  Sãi vẫn giữ cơ cấu tổ chức trong tỉnh theo mô hình Hội Đồng Kỷ Luật Sư Sãi trước đó.

Tuy không còn sự chỉ đạo trực tiếp của Vua Sãi Campuchia nhưng tổ chức hội đồng vẫn diễn tiến tốt đẹp. Vì không có tổ chức hội đồng từ trung ương đến địa phương nên Hội Đồng Kỷ Luật Sư Sãi có phần không nhất quán.

Tại Vĩnh Bình có hai hội đồng: Hội Phật Giáo Nguyên Thủy và Giáo Phái Theravada. Ba Xuyên và Bạc Liêu chỉ có một hội đồng, kể từ khi hai tỉnh này còn là một. Kiên Giang và Chương Thiện có một Hội Đồng. Phong Dinh có một Hội Đồng. Châu Đốc có hai: Giáo phái Dhammayutta và giáo phái Mahanikaya.

Năm 1957 ông Sơn Thái Nguyên thành lập giáo phái Theravada để thống nhất phật giáo thành một tổ chức, nhưng bộ Nội vụ không chấp thuận. Mãi đến năm 1963 Viện Hóa Đạo công nhận giáo phái Theravada Cư sĩ là đại diện  cho khối phật giáo người Việt gốc Khơme tại trung ương, nhưng các tỉnh dường như cũng không hòan tòan ủng hộ.

Ngày 19-11-1960 Bộ Nội Vụ cho thành lập cho thành lập Hội Phật Giáo Nguyên Thủy của người Việt gốc Khơme ở tỉnh Vĩnh Bình.

Năm 1964 Hội Đòan kết sư Sãi yêu nước Miền tây ra đời  do Đại đức Thạch Som làm hội trưởng, đây là một tổ chức đòan kết các tôn giáo và dân tộc, đấu tranh vì tổ quốc và nhân dân. Có thể nói tổ chức này đóng góp rất nhiều cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của đồng bào khơme và sư sãi Nam bộ (23)

Tóm lại hệ thống tổ chức của chư tăng người Việt gốc Khơme dưới Giáo hội trung ương, chúng ta thấy cấp tỉnh có hội đồng kỷ luật sư sãi – Salakon do Mekon đứng đầu, cấp huyện có Anukon, cấp xã có Upachhea. Đồng thời  mỗi chùa có ban quản trị do khóm, sóc bầu. Mỗi chùa có Sãi cả trụ trì, dưới Sãi cả có hai sãi phó và một Achar chuyên dạy giáo lý kinh điển.

 Mùa đông năm 1963 (24) , tất cả các giáo phái phật giáo trên toàn quốc đồng lòng với nhau thống nhất thành một mối để thể hiện tinh thần Đại Đoàn kết. Chúng ta thấy người Việt gốc Khơme có hai phái đoàn Chư Tăng và Cư sĩ tham gia để thống nhất phật giáo:

Giáo Phái Theravada Tăng Già

Đại Biểu Chính Thức:

a/ Cấp trung ương:

1. Đại Đức Thạch Gồng (trưởng phái đoàn)

2. Đại Đức  Thạch Reach

3. Đại Đức Kim Sang

4. Đại Đức Kiên Phun

5. Đại Đức  Danh Bao

6. Đại Đức Danh Srum

7.  Đại Đức Thạch Pêch

 

b/ Cấp tỉnh:  

1. Vĩnh Bình : Đại Đức  Thạch Phuone

2. Ba Xuyên: Đại Đức Lâm Se

3. An Giang: Đại Đức Thạch Hương

4. Phong Dinh: Đại Đức Kiến Meach

5. An Xuyên: Đại Đức Thạch Ấm

6. Vĩnh Long: Đại Đức Thạch Quít

7. Tây Ninh: Đại Đức Kim Cân

8. Bình Long: Đại Đức  Kim Kinh

9. Phước Long: Đại Đức Kim Pruk

10. Kiên Giang: Đại Đức Danh Quênh 

 

Giáo Phái Theravada Cư Sĩ

a/Cấp Trung ương:

1. Sơn Thái Nguyên

2. Kim Hòai

3. Kiên Sốt

4. Danh Trị

5. Danh Huyên

6. Thạch Tết

7. Mai The

 

b/ Dự khuyết: Châu Công

 

b/ Cấp tỉnh:

1. Vĩnh Bình: Sơn Ruông

2. An Giang: Châu Meach

3. An Giang: Chiêm Chuôn

4. Ba Xuyên: Kim Sa

5. Phong Dinh: Kiên Sovach

6. VĩnhBình: Kim Kinh

7. Phong Dinh: Kim Khuonne

8. VĩnhBình: Thạch Lèo

9. Ba Xuyên: Thạch Yui

10. An Xuyên: Giang Thanh Thân

 

c/ Quan sát viên:

1. Đại Đức Sơn Sun

2. Đại Đức Thạch Suông

3. Đại Đức Sơn Sương

4. Đại Đức  Châu Lun

5. Đại Đức Tăng Kim

6. Đạo hữu Nghinh Pan

7. Đạo hữu Mai Puôi

8. Đạo hữu  Ly Sai

9. Đạo hữu Tăng Dum

10. Đạo hữu Sơn Dum

 

Trong đại hội,  Đại Đức Kim Sang đại diện giáo phái theravada người Việt gốc khơme đọc chúc từ đến Đại hội bằng tiếng khơme.

 

Sau đại hội thống nhất phật giáo, người việt gốc Khơme được suy tôn trong viện Hoá Đạo:

Tổng vụ Tăng Sự :  có Đại Đức Kim Sang  phụ trách Tăng Bộ Nam Tông Vụ

Tổng Vụ Cư Sĩ: có Đạo hữu Sơn Thái Nguyên phụ trách Thiên tín Nam Tông vụ

 

Hội nghị đại biểu thống nhất phật giáo Việt Nam, chúng ta  thấy Phật giáo Nam tông Khơme tham gia Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thành lập 1981, hoà họp trong tinh thần đoàn kết, đoàn đại biểu hội đoàn kết sư sãi yêu nước Miền Tây nam bộ. Đoàn gồm có (25) :

 

1. Hoà Thượng Dương Nhơn (trưởng đoàn)

2. Hoà Thượng Danh Nhường (Phó đoàn)

3. Thượng toạ Liêu Bâu

4. Hoà Thượng mahasaray

5. Thượng toạ Kim Tốc Chơn

6. Thượng toạ Hữu Hinh

7. Hoà Thượng Võ Văn By

8. Thượng toạ Châu Xưng

 

Trong Đại hội Hoà Thượng Dương Nhơn, đại diện  Hội Sư Sãi yêu Nước Miền Tây Nam Bộ phát biễu tham luận. Trong tham luận hoà thượng có phát biểu: “ đại diện 419 ngôi chùa, trên 11 ngàn Tăng Ni và hơn một triệu đồng bào khơme xin trân trọng gởi lời chào sức khoẻ đến chư vị và kính chúc hội nghị thành công tốt đẹp”

Sau khi thành lập Giáo Hội Phật giáo Việt Nam, Hoà thượng, thượng toạ Nam tông Khơme được suy tôn chức vụ tại trung ương từng nhiệm kỳ trong nhiều năm qua gồm có:

Nhiệm kỳ I (1981- 1987) (26) :

– Thường trực HĐCM:

Hòa Thượng Mahasaray (Trà Vinh) Phó Pháp chủ

– Hội Đồng Chứng Minh:

 HT. Mahasaray, HT. Châu Mum (Sóc Trăng),  HT. Võ Văn By (An Giang), HT. Danh Nhường (Kiên Giang).

– Thường trực HĐTS:

 Hòa thượng Châu Mum phó chủ tịch

– Hội Đồng Trị Sự:

 HT. Châu Mum HĐTS.

Nhiệm kỳ II (1987-1992): 

– Thường trực HĐCM:

Hòa thượng Thạch Xom (Trà Vinh) phó Pháp chủ

– Hội Đồng Chứng Minh:

 HT. Châu Mum (Sóc trăng), HT. Võ Văn By (An Giang), HT. Thạch Xom (Trà Vinh), HT. Danh Nhưỡng (Kiên Giang)

– Thường trực HĐTS:

  Hòa thượng Châu Mum (Sóc Trăng) phó chủ tịch

– Hội Đồng Trị Sự:

 HT. Châu Mum (Sóc Trăng), HT. Danh nhu?ng (Kien Giang), Thu?ng to? Duong Nhon

Nhiệm kỳ III (1992-1997) :

– Thường trực HĐCM:

HT. Thạch Xom (Trà Vinh) , HT. Mahasary (Trà Vinh) :  phó pháp chủ.

– Hội Đồng Chứng Minh:

 HT. Châu Mum (Sóc Trăng), HT. Mahasaray (Trà Vinh), HT. Danh nhưỡng (Kiên Giang), HT. Võ Văn By (An Giang), HT. Thạch Xom (Trà Vinh) .

– Thường trực HĐTS:

 HT. Châu Mum (Sóc Trăng) phó chủ tịch HÐTS,  HT. Danh Nhưỡng (Kiên Giang) Phó trưởng ban tăng sự.

– Hội Đồng Trị Sự:

  HT. Châu Mum (Sóc Trăng), HT. Danh Nhưỡng (Kiên Giang), HT. Dương Nhơn (Sóc Trăng ) HĐTS.

Ban Taêng Söï

Hoaø Thöôïng Danh Nhöôøng (phoù ban)

Hoaø Thöôïng Sieu Vieät (uyû vieân)

Ñai Ñöc Thieän Haïnh trôï lyù vaên phoøng 

Ban Giaùo Duïc Taêng Ni

Hoaø Thöôïng Danh Nhöôõng (uyû vieân)

Hoaø Thöôïng Sieâu Vieät (uyû vieân)

Ban Höôùng Daãn Nam Nöõ Phaät töû

Ñaïi Ñöùc Chaùnh Nieäm (uyû vieân)

Ban Hoaèng Phaùp

Ñai Ñöùc Phalaø Suvanna (uyû vieân)

Hoaø thöôïng Sieâu Vieät (phoù ban)

Ñai Ñöùc Chaùnh Nieäm (uyû vieân)

Ñai Ñöùc Böûu Chaùnh

Ban Nghi Leã

Hoaø Thöôïng Döông Nhôn (uyû vieân)

Thöôïng toaï Thieän Taâm (uyû vieân)

Ban Vaên Hoaù

Ban Töø Thieän Xaõ Hoäi

Ñaïi Ñöùc  Tònh Trí (uyû vieân)

Ban Phaät Giaùo Quoác Teá

Hoaø Thöông Döông Nhôn (phoù ban)

Hoaø Thöông Sieu Viet (phoù ban)

Thöông toaï Thieän Taâm (uyû vieân)

Ñai Ñöùc Böûu Chaùnh (vaên phoøng)

 

Nhiệm kỳ IV (1997-2002):

– Thường trực HĐCM:

HT. Mahsaray (Trà Vinh), HT. Thạch Xom   Phó Pháp chủ.

– Hội Đồng Chứng Minh:

 HT. Võ văn By (An Giang), HT. Châu Mum (Sóc Trăng), HT. Danh Nhưỡng (Kiên Giang)

– Thường trực HĐTS:

 Hòa Thượng Châu Mum phó chủ tịch HĐTS, HT. Danh Nhưỡng Phó ban Tăng Sự.

– Hội Đồng Trị Sự:

 HT. Châu Mum, HT. Dương Nhơn,  Thượng tọa Đào Như (Cần Thơ), Thượng tọa Danh Phel (Bạc Liêu), Thượng tọa Sok Sane (Trà Vinh)

Ban Taêng Söï

Hoaø Thöôïng Danh Nhöôõng (phoù ban)

Thöôïng toaï Thieän Taâm (uyû vieân)

Ban Giaùo Duïc Taêng Ni

Hoaø Thöôïng Danh Nhöôøng (uyû vieân)

Hoaø Thöôïng Döông Nhôn (uyû vieân)

Thöôïng toaï Thieän Taâm (uyû vieân)

Ban Höôùng Daãn Phaät töû

Ñaïi Ñöùc Hoä Chaùnh (uyû vieân)

Ban Hoaèng Phaùp

Thöôïng toaï Danh Dænh (uyû vieân)

Thöông toaï Thieän Taâm (phoù ban)

Ñai Ñöùc Taêng Ñònh (uyû vieân)

Ban Nghi Leã

Thöông toaï Thieän Taâm (phoù ban)

Ñai Ñöùc Taêng Ñònh (uyû vieân)

Ban Vaên Hoaù

Thöôïng toaï Ñaøo Nhö (uyû vieân)

Ñaïi Ñöùc Böûu Chaùnh (uyû vieân)

Ban Töø Thieän Xaõ hoäi

Ñaïi Ñöùc Thieän Minh (uyû vieân)

Ban Phaät Giaùo Quoác Teá

Thöôïng toaï Hoä Phaùp 

 

Nhiệm kỳ V (2002-2007) :

– Thường trực HĐCM:

HT. Thạch Xom (Trà Vinh), HT. Danh nhưỡng (Kiên Giang) phó pháp chủ.

– Hội Đồng Chứng Minh:

 HT. Thạch Xom, HT. Danh nhưỡng (Kiên Giang) , HT. Thạch Hanh (Vĩnh Long) , HT. Châu Nhuk (An Giang), HT. Trần Phiêng (Sóc Trăng), HT. Trần Dạnh (Trà Vinh).

– Thường trực HĐTS:

 HT. Dương Nhơn Phó chủ tịch HĐTS,  Thượng tọa Đào Như  ủy viên thư ký kiêm Phó ban Giáo dục Tăng Ni (Đặc trách Nam Tông Khơme), HT. Danh nhưỡng Phó ban Tăng sự trung ương.

– Hội Đồng Trị Sự:

 HT. Danh Nhưỡng (Kiên Giang) , HT. Dương Nhơn ( Sóc Trăng) , HT. Trần Dạnh (Trà Vinh) , TT. Đào Như (Cần Thơ), TT. Thạch Sock Sanne (Trà Vinh), TT. Lý Sa Muoth (Bạc Liêu) HĐTS.

U? viên Dự Khuyết HĐTS:

 TT. Danh Đổng (Kiên Giang),  TT. Danh Lân (Kiên Giang), TT. Diệp Tươi (Trà Vinh), TT. Thạch Sên (Trà Vinh), TT. Thạch On (Trà Vinh), TT. Tăng Nô (Sóc Trăng), TT. Thạch Huôn (Sóc Trăng), TT. Châu Sơn Hy (An Giang), TT. Danh Dĩnh (Kiên Giang), TT. Danh Thiệp (An Giang), TT. Đại đức Danh Lung (Tp. HCM), ĐĐ. Thạch Văn Thương (Trà Vinh), ĐĐ. Thạch Hà (Cà Mau), ĐĐ. Sơn Ngọc Huynh (Trà Vinh) Uûy viên HĐTS dự khuyết.

3.2. Tổ Chức Nam Tông Kinh

Hội Phật Giáo Nguyên Thuỷ:

Nội bộ phật giáo nguyên thuỷ việt nam có hai tổ chức song song, Tổng Hội Cư Sĩ và Giáo Hội Tăng Già. Tổng hội cư sĩ ra đời nhằm mục đích là hổ trợ Chư tăng trong việc hoằng dương chánh pháp, cụ thể là việc Từ Thiện và Văn hoá. Từ lúc thành lập đến năm 1975 có nhiều nhiệm kỳ nhưng đa số là Cụ Nguyễn Văn Hiểu đều là hội trưởng, đặc biệt  nhiệm kỳ năm 1975 cụ nguyễn Từ Thiện là hội truởng. Mỗi nhiệm kỳ bầu bằng cách dân chủ, bỏ thăm kín.

Danh Sách Ban Quản Trị năm  1957-1958

1. Hội trưởng: Nguyễn Văn Hiểu

2. Phó hội trưởng1: Đàng Văn Ngộ

3. Phó hội trưởng 2 : Văng Công Hương

4. Tổng thư ký: Trần Văn Cầm

5. Phó thư ký 1: Đặng  Văn Chất

6. Phó thư ký 2 : Nguyễn Hạp

7. Thủ quỹ: Đoàn Văn Hai

8. Phó thủ quỹ: Hùynh Công Yến

9. Phó thủ quỹ: Ngô Vi Thụy

10. Cố vấn: Trần Văn Nhân

11. Kiểm soát: Tôn Thất Thiệp

Thành quả đạt được của Tổng Hội cư sĩ là kiến tạo Tổ Đình Bửu Quang, Kỳ Viên, Thích Ca Phật Đài (Vũng Tàu) và bảo tháp Miền Tây; họat động rất tích cực và thành công trong công tác Từ Thiện xã hội; xuất bản khoảng 150 đầu kinh sách của Phật giáo nguyên thủy v.v…

Tháng 12 năm 1963 (27) , Hội Phật Giáo Nguyên Thuỷ Việt Nam là một trong 11 giáo phái để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Hội Phật giáo Nguyên thuỷ tham dự Đại hội:

Đại biểu chính thức:

a) Cấp trung ương:

1. Đạo hữu Nguyễn Văn Hiểu (trưởng đoàn)

2. Đạo hữu Trần Văn Nhân

3. Đạo hữu Đặng Văn Ngô

4. Đạo hữu Nguyễn Từ Thiện

5. Đạo hữu  Huỳnh Công Yến

6. Đạo hữu Nguyễn văn Thành

7. Đạo hữu Hồ Đắc Thăng

 

b) Cấp tỉnh:

 

1. Chợ Lớn: Đạo hữu  Đặng Minh Ruẩn

2. Long An: Đạo hữu  Dương huý Thể

3. Gia Định: Đạo hữu Mai Văn Vân

4.  Gia Định: Đạo hữu  Ngô Vị Thuỷ

5.Thủ Đức: Đạo hữu Nguyễn Văn Thành

6. Tây Ninh: Đạo hữu La Phu

7. Vĩnh Bình: Đạo hữu Lại Văn huyên

8. Phước Tuy:Đạo hữu  Lê Quang Vinh

9. Định Tường: Đạo hữu Trần Tắc

10. Vĩnh Long: Đạo hữu Phạm Kim Khánh

11. Bình Định: Đạo hữu Phạm Văn Ngàn

12. Thừa Thiên: Đạo hữu Nguyễn văn Đồng

13.Đà Nẵng: Đạo hữu Trương phú Hơn

 

Trong Đại hội, đạo hữu Hồ Đắc Thăng suy tôn  giữ chức vụ tổng vụ pháp sự, đặc trách Xã Hội Vụ.

Đến năm 1981, Hội Phật Giáo Nguyên Thuỷ Việt Nam yếu dần và hoạt động rờ rạt, vì thế cho nên không có tham gia trong Hội nghị đại biểu thống nhất phật giáo Việt nam. Hiện nay Hội Phật Giáo Nguyên Thuỷ Việt Nam tại Pháp quốc vẫn còn hoạt động do đạo hữu bác sĩ Nguyễn Tối Thiện.

 

Giáo hội Tăng Già Nguyên Thuỷ Việt Nam

Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thuỷ Việt Nam thành lập 1957 và hoạt động đến ngày 7 tháng 11 năm 1981, tổng cộng có 9 nhiệm kỳ Tăng thống. Hoà Thượng Hộ Tông, Bửu Chơn, Giới Nghiêm, Ẩn Lâm luân phiên đắc cử trong 9 nhiệm kỳ đó. Hoà Thượng Thiện Luật, Hoà Thượng Bửu Chơn, Tối Thắng, Hộ Tông, Siêu Việt luân phiên đắc cử trong 9 nhiệm kỳ với chức vụ phó Tăng Thống. Đặc biệt trong 9 nhiệm kỳ đó, TT. Kim Quang, Pháp Tri, Pháp Siêu, Thiện Căn, Thiện Dũng, Giác Minh, Thiện Tâm và Viên Minh đắc cử tổng thư ký GHTGNTVN.

Năm 1963, Giáo Hội Tăng gìa Nguyên Thuỷ Việt Nam là một trong 11 tổ chức Phật giáo để thống nhất và thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt nam Thống Nhất. Thành phần nhân sự  của Giáo Hội Tăng già Nguyên Thuỷ tham gia trong phái đoàn tham dự Đại Hội:

Đại biểu chính thức:

a) Cấp Trung ương:

1. Đại Đức Giới Nghiêm (trưởng đoàn)

2. Hoà Thượng Tối Thắng

3. Đại Đức Ẩm Lâm

4. Đại Đức Pháp Tri

5. Đại Đức Tịnh Sự

6. Đại Đức Dũng Chí

7. Đại Đức Tốc Chí

 

b) Cấp tỉnh:

 

1. Bình Định: Đại Đức Bửu Phương

2. Gia Định: Đại Đức Hộ Giác

3. Thừa Thiên: Đại Đức Pháp Quang

4. Chợ Lớn:Đại Đức  Giác Quang

5. Tây Ninh: Đại Đức Pháp Chơn

6. Vĩnh Bình: Đại Đức Pháp Tôn

7. Đà Nẵng: Đại Đức Giới Hỷ

8. Long An: Đại Đức  Pháp Tịnh

9. Biên Hoà: Đại Đức  Giới Hỷ

10. Vũng Tàu: Đại Đức Pháp Lạc

11. Định Tường: Đại Đức Tịnh Tuệ

12. Gia Định: Đại Đức Pháp Siêu

13. Vĩnh Long: Đại Đức Kim Minh

 

Trong Đại Hội, Đại Đức Pháp Tri đại diện phái đoàn pháp biểu tham luận.

 

Cuối cùng đại hội suy tôn Đại Đức Pháp Tri phó viện trưởng Viện Hoá Đạo; Đại Đức Hộ Giác tổng uỷ viên Pháp sư và tổng uỷ viên tài chánh-kiến thiết.

Sở dĩ được 9 nhiệm kỳ như vậy là vì năm 1969 Hoà Thuợng Giới Nghiêm tuyên bố rút Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thuỷ Việt Nam (GHTGNTVN) ra khỏi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTT) để trở về cương vị cũ tu hành. Chỉ có TT. Pháp Tri và TT. Hộ Giác vẫn còn tham gia hoạt động với GHPGVNTT. Sau khi rút ra khỏi giáo hội thống nhất, Giáo Hội Nam tông sinh hoạt bình lặng trong khuôn khổ giới luật của mình cho đến năm 1981 để rồi gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam và hiện hữu cho đến ngày hôm nay.

Năm 1981, Hoà Thượng Giới Nghiêm phó ban trong Ban Vận Động thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Phái đoàn đại diện Giáo hội Tăng  già Nguyên Thuỷ Việt Nam tham dự hội nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam (28):

1. Thượng toạ Siêu Việt (trưởng đoàn)

2. Pháp Lạc (Phó đoàn)

3. Thượng Toạ Thiện Tâm (thư ký)

4. Đại Đức Kiểm Tâm

5. Đại Đức Viên Minh

6. Đại Đức Hộ Chánh

7. Đại Đức Ẩn Minh

 

Trong đại hội, Thượng toạ Thiện Tâm đại diện Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thuỷ phát biểu tham luận trong hội nghị, có đoạn: “ Hôm nay trong không khí vô cùng hân hoan của ngày vui thống nhất đoàn tựu đại gia đình phật giáo trong cả nước, chúng tôi mong rằng toàn thể phật giáo đồ chúng ta nguyện một lòng chung lưng đấu cật với nhau để tạo thành một sức mạnh chung cùng nhau đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng đạo pháp và dân tộc như truyền thống muôn đời cuả các bậc tiền nhân chư  tổ.

Từ năm 1981 đến nay có các vị đại diện phật giáo Nam tông tham gia các chức vụ trong Hội Đồng Chứng,  Hội Đồng Sự  và các Ban Ngành viện trực thuộc TW. GHPGVN trong những nhiệm kỳ:

Nhiệm kỳ I (1981-1987 )

Thường trực HĐCM:

– HT. Ẩn Lâm : phó pháp chủ (Tp.HCM)

Hội đồng Chứng minh:

-HT. Ẩn Lâm (Tp.HCM)

– HT. Giới Nghiêm (Tp.HCM)

Thường trực HĐTS:

– HT. Giới Ngjhiêm: phó chủ tịch

Hội đồng trị sự:

– HT. Giới Nghiêm (Tp.HCM)

– TT. Siêu Việt (Tp.HCM)

– Thượng tọa Thiện Tâm

Nhiệm kỳ II : (1987-1992 )

Thường trực HĐTS:

– Hòa Thượng Siêu Việt :  phó chủ tịch(Tp.HCM)

Hội Đồng Trị Sự:

–  Hòa Thượng Siêu Việt (Tp.HCM)

Nhiệm kỳ III: (1992- 1997)

Thường trực HĐTS:

– Hòa Thượng Siêu Việt : phó chủ tịch (Tp.HCM)

Hội Đồng Trị Sự:

– Hòa Thượng Siêu Việt (Tp.HCM)

Nhiệm kỳ IV: (1997- 2002)

Hội đồng Chứng minh:

– HT. Kim Minh (Bà Rịa- Vũng Tàu)

– HT. Hộ Nhẫn (Huế)

– HT. Pháp Lạc (Tiền Giang)

Thường trực HĐTS:

– HT. Hộ Nhẫn: phó chủ tịch (Tp. Huế)

Hội Đồng Trị Sự:

– HT. Hộ Nhẫn

– Thượng tọa Thiện tâm

Nhiệm kỳ V (2002- 2007):

Thường trực HĐCM:

– HT. Kim Minh:  Phó Pháp chủ

Hội Đồng Chứng Minh:

– HT. Kim Minh

Thường trực Hội Đồng Trị Sự:

– Thượng tọa Thiện Tâm: ủy viên thường trực HĐTS

Hội Đồng trị sự:

–  Hòa Thượng Vô Hại

– Thượng tọa Thiện Tâm

Các Ban Ngành viện:

Ban Hoằng Pháp:

1. Thượng Toạ Thiện Tâm: Phó ban

2. Đại Đức Bửu Chánh: Uỷ viên

3. Đại Đức Thiện Minh: Uỷ viên

Ban Từ Thiện:

1. Đại Đức Thiện Minh: phó ban

2. Đại Đức Thiện Pháp: uỷ viên

 

Ban Văn Hoá:

1. Đại Đức Tăng Định: uỷ viên

2. Đại Đức Bửu Chánh: uỷ viên

Ban Phật Giáo quốc tế:

1. Thượng Toạ Thiện Tâm: uỷ viên

2. Đại Đức Bửu Chánh: uỷ viên

3. Đại Đức Tăng Định: uỷ viên

 

Ban Nghi Lễ:

1. Thượng Toạ Thiện Tâm: Phó ban

2. Đại Đức Tăng Định: uỷ viên

3. Đại Đức Pháp Chất: uỷ viên

 

Viện nghiên cứu Phật Giáo Việt Nam:

 

1. Thượng toạ Viên Minh: uỷ viên kiêm phó ban Thiền Học

2. Thượng toạ Thiện Tâm: uỷ viên kiêm phó ban Phật học chuyên môn

3. Đại Đức Bửu Chánh: uỷ viên kiêm phó ban kinh tế

4. Đại Đức Bửu Hiền: uỷ viên kiêm phó văn phòng

5. Đại Đức Thiện Minh: uỷ viên kiêm phó thư ký ban dịch thuật

 

Ban Kinh Tế tài chánh:

 

1. Đại Đức Thiện Hạnh: uỷ viên

 

Ban hướng dẫn Nam Nữ Phật tử:

 

1. Thượng toạ Hộ Chánh: uỷ viên

2. Đại Đức Tăng Định: uỷ viên

4.1 Kinh điển

Nguồn kinh điển của phật giáo Nam tông có lịch sử truyền thừa rất lâu đời trong lịch sử Phật giáo. Nguồn tài liệu này được các vị Thánh tăng tổ chức kết tập Tam tạng từng thời kỳ khác nhau. Có tất cả 6 kỳ kết tập Kinh văn, ba kỳ tổ chức ở Aán Độ, một kỳ tổ chức ở Tích Lan, hai kỳ tổ chức ở Miến Điện. Kỳ kết tập lần thứ sáu ở Miến điện là Kinh Điển đuợc viết lến giấy trắng mực đen vào năm 1956, trong kỳ này có đại diện phái đoàn phật giáo Nguyên thuỷ Việt nam tham dự. Điểm đáng lưu ý là kỳ này vẫn còn 6 vị Thánh Tăng thuộc lòng Tam tạng, đó là 45 cuốn chánh tạng và 92 cuốn chú giải. Toàn bộ kỳ kết tập kinh văn này đuợc viết bằng tiếng Pali và tiếng Miến Điện. Và từ nền tảng căn bản kinh điển này phật giáo Nguyên thuỷ truyền bá đến quốc gia nào cũng dịch từ 45 quyển chánh tạng và 92 quyển chú giải ra tiếng bản xứ của Mình để y cứ tu hành. Cho nên kinh điển phật giáo Nam tông đều y cứ theo Tam Tạng Pali. Tại việt nam, tạng kinh đã đuợc Hoà Thượng Thích Minh Châu phiên dịch, Luận Tạng Hoà Thượng Tịnh Sự phiên dịch và Luật tạng hoà Thuợng Hộ Tông, Hoà Thượng Bửu Chơn, Hoà Thượng Giới Nghiêm và TT. Giác Giới phiên dịch, tuy nhiên phần chú giải công trình đó vẫn còn khuyết và hiện nay các vị HT. TT đang nghiên cứu để chuyển ngữ. Nếu toàn bộ Tam tạng và chú giải Pali dịch sang tiếng việt thì giúp ích choTăng Ni một kho tàng giáo lý phong phú.

4.2 An cư và Dâng y

Truyền thống An cư của Phật giáo Nam tông thuờng là An cư tại chổ, chưa từng thấy An cư tập trung như Phật giáo Bắc tông, chắc có lẽ Chư tăng Ni quá ít. Tuy nhiên năm nay ở Thành Phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai quy tựu Chư Tăng một địa điểm tiêu biểu để học tập và thảo luận những chuyên đề căn bản cho Chư Tăng hiểu biết đường hướng hoạt của Giáo Hội và Nhà nước. Trong khoá học Ban tổ chức có mời các vị lãnh đạo cao cấp của Giáo Hội và Ban Tôn Giáo đến giảng dạy. Thời gian An cư là 16 tháng 6 Aâl đến 16 tháng 9 Aâl.

Sau khi mãn mùa An cư kiết hạ, theo giới luật chư tăng có một tháng để tổ chức dâng y, từ 16 -6 đến 16 tháng 10 Aâl. Thuờng ở Việt nam mỗi chùa cử hành lễ tăng y một ngày trong một tháng, luân phiên nhau từ chùa này đến chùa nọ, nên không khí mùa lễ hội Tăng y tưng  bừng và nháo nhiệt trong tinh thần hoan hỷ của Chư tăng và Phật tử. Một chùa là có một thí chủ dâng y hoặc là thí chủ tâp thể.

4.3 Ẩm Thực

Chư tăng Nam tông chỉ dùng ngọ (dùng ngày một buổi, không ăn sau 12h), thường sáng ăn cháo, trưa dùng ngọ, đây là bửa cơm chính trong ngày. Điểm chú ý trong truyền thống phật giáo Nguyên thuỷ là chư tăng không ăn chay thuần tuý như Phật giáo bắc tông, các Ngài đuợc phép dùng mặn theo luật Tam Tịnh Nhục. Nghĩa là thực phẩm mặn phải hợp thời, không thấy, không nghi và không nghe chúng sanh chết. Luật Tam tịnh nhục được đức Phật ban hành trong luật tạng. Đa số những quốc gia tu theo truyền thống nguyên thuỷ cũng thực hành luật Tam Tịnh Nhục này. Tuy nhiên những quốc gia ngoài truyền thống Nguyên thuỷ như Tây Tạng, Mông Cổ, Nhật Bổn, Liên Xô cũng áp dụng luật Tam Tịnh Nhục trong Thiền môn tu hành của Mình.

4.4 Tam y và Nhất bát

Tam y nhất bát là hình thức truyền thừa từ thời Đức Phật đến ngày nay. Các nước phật giáo Nam tông đều gìn giữ truyền thống này một cách nghiêm túc và nhất quán. Tam y là y Tăng Dà Lê, Y Nội và Y Vai Trái, bình bát là dụng cụ để chư tăng trì bình khất thực mỗi ngày, thậm chí chư tăng sử dụng bình bát để độ ngọ. Đức phật cũng từng ví con chim sống được nhờ cái Mõ, bậc xuất gia sống được nhờ bình bát. Tài sản của bậc xuất gia bên ngoài có Tam y và quả bát, bên trong có Giới Định Tuệ. Trong chùa chư tăng mặc y hở vai  phải, đi ra ngoài mặc kín mình. Y Tăng Da Lê thường sử dụng trong những đại lễ lớn như Lễ xuất gia, Lễ Dâng y v.v… Điểm chú ý là y phục truyền thống Nam tông khác biệt với Bắc tông, sự khác biệt này chắc có lẽ khi Phật giáo du nhập  vào Trung hoa.

4.5 Kiến trúc và Tôn thờ

a/ Nam Tông  Khơme

Chùa Nam tông khơme có lối kiến trúc độc đáo của nền văn hoá của mình, nó ảnh hưởng kiến trúc của Ấn Độ và các nước Đông Nam Á. Thường những quốc gia Thái Lan, Miến Điện, Lào, Camphuchia kiến trúc nổi bậc của nó là chùa tháp và cổng tam quan. Chùa là nơi tôn trí tượng Phật Thích Ca, chư tăng hành lễ, phật tử lễ bái; tháp là nơi tôn trí Xá lợi của phật tổ và xương cốt của chư tăng và phật tử. Cổng tam quan là  lối vào chùa.

Chùa Nam tông khơme thường được bố trí trên một khoảng không gian đất đai rộng lớn, có nhiều cây cao bóng cả, yên tịnh và u tịch. Đa số mặt tiền chùa hướng về phương đông, vì quan niệm phật ở phương tây hướng về phương đông ban phước. Chùa xây dựng xong, chư tăng phải tổ chức lễ kết Sìma, sìma là xác định ranh giới chùa, người vô hình không được xâm phạm vào, được xem là nơi thiêng liêng, nơi phật hiện hữu. Nghi thức tổ chức kết giới Sìma long trọng và công phu, vì thiếu nó được xem như là hỏng các nghi thức Tăng sự: dâng y kathiana, lễ Bố tát, lễ xuất gia v.v…Thường chùa lớn đào 8 hố, nhỏ 6 hoặc 4 hố xung quanh ngôi chánh điện để chư tăng tụng kinh xác định ranh giới, những hố thường là đặt khối đá khắc  hình sư tử, hình tượng Reihu, chằn và niên đại kết giới sìma. Trong ngày lễ kết giới Sima phật tử tham dự rất đông được xem như là lễ hội quan trọng, những hố đặt trụ đá trên, phật tử cầu nguyện điều gì ném xuống hố vật đó để thành tựu điều ước nguyện của mình, ví dụ: cầu giàu sang, ném tiền bạc, cầu đẹp đẻ, ném quần áo.

Điện phật thường có tam cấp: cấp cao nhất, thường tôn trí Xá Lợi; cấp giữa, tôn trí Phật Thích Ca to lớn; cấp cuối, tôn trí các pho tượng phật Thích ca ở mỗi tư thế khác nhau.Thích Ca đứng, ngồi và nằm. Thích ca đứng tượng trưng ban phước, Thích ca ngồi tượng trưng thiền định, thích ca nằm tượng trưng nhập diệt. Trên trần nhà và xung quanh điện phật thường vẽ những bức ảnh cuộc đời phật Thích Ca. Điện Phật (chánh điện) được xem như là quần thể kiến trúc chính của ngôi chùa, do đó độ cao hơn tháp, tăng xá, giảng đuờng khoảng 1m. Điện phật thường có hành lang bao bọc. Chánh điện có ba cấp mái, mỗi cấp chia thành ba nếp, nếp giữa cao hơn hai nếp  bên. Độ cấp mái trên cùng rất đứng, khoảng 60%, Đầu và các gốc mái đều có đắp một khúc đuôi rắn dài, cong vút. Trang trí trên mái chánh điện và xung quanh hành lang bằng những hình tượng phổ biến như chư thiên, chằn, Garuda, keyno v.v…

Đến viếng chùa nam tông khơme chúng ta thấy có nhiều ngôi bảo tháp, không to và hùng vĩ như ở Thái Lan, Miến Điện. Thường được bố trí xung quanh ngôi chánh điện. Có ngôi chánh điện đến  bốn, sáu hoặc tám ngôi bảo tháp, chính vì thế nhìn chùa khơme Nam tông chúng ta thấy cả một vùng thể chùa tháp, nên có người còn gọi là chùa tháp. Đồng thời ngôi chùa nào nhiều bảo tháp tức là niên đại càng lâu, vì mỗi vị trụ trì viên tịch thường kiến tạo một bảo tháp để tôn thờ. Kiến trúc ngôi bảo tháp không khác kiến trúc tháp ở camphuchia, nhỏ, gọn và đẹp. Chiều cao khoảng 3 hoặc 6 m.

Đa số cổng chùa nam tông khơme không bố trí theo kiểu cổng tam quan của người việt. Cổng thường to lớn, hoa văn rất nhiều, dưới mái cổng có chằn và garuda đỡ, nhìn rất uy nghiêm.

b/ Nam Tông Kinh

Phật giáo nam tông kinh đến việt nam khoảng thập niên ba mươi, so với niên đại du nhập của phật giáo Bắc tông thì thời gian quá khiêm tốn.  Nhưng hơn sáu mươi năm qua đã khẳng định ví trí kiến trúc của mình, qua tổ đình Bửu Quang, Chùa Giác Quang, Chùa Kỳ Viên, Thích Ca Phật Đài, Chùa Bửu Long, Chùa Pháp Quang, chùa Phổ Minh, Tam Bảo Tự (Đà Nẵng),chùa Siêu Lý  v.v…

Đặc biệt nhất là Thích Ca Phật Đài, được kiến tạo vào năm 1963 do Hội Phật giáo Nguyên thuỷ Việt Nam và Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thuỷ Việt Nam. Chúng ta tham quan thánh đại này thấy nền kiến trúc ở đây rất ưu việt của nó, tính ưu việt không phải sự hùng vĩ, nguy nga mà là có phong cách kiến trúc độc lập không vai mượn ở những quốc gia thuộc phật giáo Nam tông. Tại đây chúng ta thấy những công trình kiến trúc rất tiêu biểu của phật giáo Nam tông kinh: Cổng Tam quan, Bảo tháp, Phật Lộ thiên, Chánh điện, các Phật tích.

Những vị trong phái đoàn truyền giáo của Hoà Thượng Hộ Tông kiến tạo chùa thường mặt tiền chánh điện xoay hướng Đông, phương cách này ảnh hưởng phật giáo Camphuchia. Chánh điện luôn phải kiết giới Sìma. Trong chánh điện chỉ tôn thờ duy nhất một tượng Phật Thích Ca và nhiều pho tượng Thích Ca ở mỗi tư thế khác nhau. Một pháp toạ để Pháp sư giảng pháp vào những ngày lễ. Xung quanh chánh điện thường treo những bức tranh về cuộc đời Phật Thích Ca.

4.6 Nghi Lễ

 Phật giáo Nam tông  không đặt nặng nghi lễ, vì chuộng đời sống chân thật , mọc mạc và đơn giản, nhưng rất quan tâm đến giới luật , vì vậy có một số đặc điểm như sau:

– Lễ kính nhau theo tôn ti hạ lạp , nhưng không đón rước quá trịnh trọng như phong kiến .

– Trai tăng là không thọ thực quá ngọ và dùng tam tịnh nhục chứ không ăn chay.

– Tụng kinh không dùng chuông mỏ và không xướng tán ngân nga.

– Chỉ thờ Đức Phật Thích Ca, và chỉ cúng hương hoa để tỏ lòng thành kính chứ không cúng vật thực .

– Không cúng sao hạn , chuẩn tế , không bói toán coi ngày tốt xấu .

– Đi khuất thực không nhận tiền bạc, chỉ nhận vật thực đã chính do thí chủ tự nguyện dâng cúng  không mở lời xin hay nói khéo để người phải cho .

– Mỗi ngày có hai thời tụng kinh lễ bái Tam Bảo vào buổi sáng và buổi chiều, ngoài ra chư tăng thường tụng kinh quán tưởng  và chúc phúc cho thí chủ trước khi thọ thực.

Mỗi năm có những ngày lễ:

Nam tông Khơme

Chư tăng nam tông khơme hàng năm có cả thảy tám ngày lễ. Các ngày lễ này đều tổ chức ở chùa. Chương trình hành lễ do vị sư trụ trì soạn thảo, đến ngày lễ phật tử tập trung đến ngôi chùa trong tỉnh, huyện hoặc xã của mình để cử hành lễ.  Những ngày lễ trong năm (30):

1. Méakabauchia- rằm tháng giêng, ngày lễ này có hai ý nghĩa chính. Một, phật tuyên hứa và khẳng định với Ma Vương ba tháng nữa ngài sẽ tịch diệt. Hai, đại hội chư tăng tại ngôi chùa tổ đình Trúc Lâm- Veluvana Vihara  phật giáo đầu tiên. Ngày đại hội này chư tăng tham dự 1250 vị tỳ kheo A La Hán có Lục thông và Tuệ phân tích.

2. Chôlchnam- chúc mừng năm mới, năm mới của người khơme vào khoảng giữa tháng tư

3. Visakabauchia- rằm tháng tư , ngày lễ này có ba ý nghĩa chính. Một, Bồ Tát Đản Sanh. Hai, Bồ tát thành đạo. Ba, Phật Nhập Níp bàn

4. Chôl Vo Sa- Lễ an cư kiết ha ngày 15 tháng 6 Âlï, An cư kiết hạ nghĩa là Chư tăng ở trong chùa liên tục ba tháng để trao giồi thân khẩu ý cho được trong sạch, rất hạn chế việc đi lại, ngoại trừ những việc cần thiết phải đi, như thầy tổ, cha mẹ v.v… đau yếu. Ngày lễ này bắt đầu từ  ngày 16-6 âl đến 15-9 âl.

5. Phchum Ben  hay Đônta- lễ Xá Tội Vong Nhân, ngày lễ này bắt đầu vào khoảng giữa tháng chín. Lễ này Phật tử đến chùa Cầu Siêu cho cửu huyền thất  tổ, ông bà cha mẹ đã quá vãng.

6. Chanh Vô Sa- lễ Tự Tứ, tổ chức vào ngày 15 tháng 9 âl.

7. Ok Ang Bok-Lễ Cúng Trăng, tổ chức vào cuối tháng 10.

8. Ka Thanh- lễ dâng y, tổ chức  từ ngày 16 tháng 9 đến 15 tháng 10 âl.

Nam tông Kinh

– Rằm tháng Giêng,  có hai ý nghĩa: Phật hứa với Ma vương và đại hội thánh tăng

– Rằm tháng Tư , có ba ý nghĩa: Đản sanh, thành đạo và Níp bàn

– Rằm tháng Sáu, có bốn ý nghĩa: Giáng trần, Xuất gia, Chuyển Pháp luân, Cảm hoá ngoại đạo

– Rằm tháng Bảy, ngày Vu lan Báo hiếu

– Rằm tháng Chín, ngày lễ Tự Tứ và mùa dâng y Kathina (29)

– Tết Nguyên Đán

Đặc biệt rằm tháng Giêng, tháng Tư, tháng sáu, các chùa Nam tông tổ chức lễ buổi sáng và buổi tối. Buổi sáng thường  tổ chức lể đặt bát hội. Buổi tối tổ chức lễ thọ hạnh đầu đà, thức suốt đêm không ngủ, chư tăng và phật tử tụng kinh, hành thiền, chiêm bái xá lợi v.v… để gieo duyên lành trong phật pháp. Rằm tháng bảy thực chất không phải là ngày lễ chính thức của Phật giáo Nam tông Kinh, nhưng vì tính ngưỡng của phật tử việt nam ảnh hưởng ngày rằm tháng bảy từ lâu, vì thế  đến ngày ấy Chư Tăng tổ chức lễ rằm tháng bảy theo  nghi thức Nam tông. Phật tử đến chuà dâng bát cúng dường tứ sự đến chư tăng để cầu an cho gia đạo và cầu siêu cho thân bằng quyến thuộc đã quá vãng. Rằm tháng chín là ngày lễ Tự Tứ, ngày chư tăng mãn mùa An Cư Kiết Hạ và khởi điểm cho mùa dâng y Kathina, bắt đầu từ 16-9 đến 15-10 Âl

 Tóm lại nghi lễ Phật Giáo Nam Tông thường ngắn gọn , trang nghiêm chứ không rườm rà phức tạp.

                                              Đón nhận góp ý của độc giả: suvijjo@hcm.vnn.vn

Ghi chú:

(1)  Lê Hương- Người Việt gốc Miên, lời nói đầu,  xuất bản 1969

(2) Lê Hương- Người Việt gốc Miên, lời nói đầu,  xuất bản 1969

(3) Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải- Văn Hóa Oùc Eo, nhà xuất bản khoa học xã hội năm 1995, trang 81-86.

(4) Lê Hương- Người Việt gốc Miên, vị trí phỏng định,  xuất bản 1969

(5)  Thích Đức Nghiệp, Phật Giáo Việt Nam

(6)  Lê Hương- Người Việt gốc Miên, xuất bản 1969, trang 19 và 20.

7)  Lê Hương- Người Việt gốc Miên, xuất bản 1969, trang 26

(8) Nguyễn Quảng Tuân, Hùynh Lứa, Trần Hồng Liên, Những ngôi chùa ở Nam Bộ, NXB.TPHCM. năm 1994

(9) Tiểu sử  Cụ Nguyễn Văn Hiểu- sáng lập viên tổng hội Cư sĩ,  xuất bản năm 1993

(10) Tiểu sử  Cụ Nguyễn Văn Hiểu- sáng lập viên tổng hội Cư sĩ,  xuất bản năm 1993

(11) Tiểu sử  Hoà Thượng Giác Quang

(12) Tiểu sử  cụ Nguyễn Văn Hiểu

(13) Thống kê năm 2004

(14) Lê Hương- Người Việt gốc Miên, xuất bản 1969, trang 168-172

(15) GS. TS. Đổ Quang Hưng, tìm hiểu về mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội, trang 112, xuất bản 2004.

(16) Lê Hương- Người Việt gốc Miên, xuất bản 1969, trang 171

(17) Lê Hương- Người Việt gốc Miên, xuất bản 1969, trang 168-172

(18) Nội quy và Đều Lệ Hội Phật giáo Nguyên thuỷ Việt Nam, xuất bản 1958

(19) Nội quy và Đều Lệ Hội Phật giáo Nguyên thuỷ Việt Nam, xuất bản 1958

(20) Văn bản lưu – Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy VN

(21) Nội quy và Đều Lệ Giáo Hội Phật giáo Nguyên thuỷ Việt Nam, xuất bản 1958

(22) Lê Hương- Người Việt gốc Miên, xuất bản 1969.

(23) chưa tìm thấy

(24) Cuộc họp trù bị khoáng đại- ĐẠI HỘI THỐNG NHẤT PHẬT GIÁO VIỆT NAM, khai mạc lúc 8hoo sáng ngày 30-12-1963 tại chùa Aán Quang  243 Sư  Vạn Hạnh, Sài Gòn

(25) Hội Nghị Đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam

(26) Hội Nghị Đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam

(27) Cuộc họp trù bị khoáng đại- ĐẠI HỘI THỐNG NHẤT PHẬT GIÁO VIỆT NAM, khai mạc lúc 8hoo sáng ngày 30-12-1963 tại chùa Aán Quang  243 Sư  Vạn Hạnh, Sài Gòn

(28) Hội Nghị Đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam

  (29) Tỳ kheo Tăng Định biên soạn,  kinh Nhật Tụng Cư sĩ, Nhà xuất bản Tp. HCM- năm 2000

(30)  Lê Hương- Người Việt gốc Miên, xuất bản 1969, trang 42

nguồn: http://phatgiaonguyenthuy.com/

Lịch sử Phật giáo Nam Tông Việt Nam