Bảy Pháp để sanh thiên
Chúng ta được nghe nói về bảy pháp để sanh thiên. Bảy pháp này có thể sẽ làm nhiều người trong chúng ta ngạc nhiên vì không hề nghĩ rằng chúng lại có thể đưa chúng ta đến Thiên giới. Bảy pháp này gồm có:
1. -Pháp thứ nhất : Phụng dưỡng cha mẹ, chăm sóc và lo lắng cho cha cho mẹ, không những chỉ với lòng thương mà còn lòng kính trọng; không những chỉ với lòng kính trọng mà còn thể hiện đầy đủ bổn phận của mình. Đó là pháp thứ nhất trong bảy pháp để sanh Thiên, để trở thành Thiên chủ.
2. -Pháp thứ hai là giữ lòng kính trọng đối với các bậc trưởng thượng. Trưởng thượng ở đây có nghĩa là những vị niên trưởng có tuổi, những bậc cha anh, những người lớn hơn mình.
3. -Pháp thứ ba là ngôn ngữ nhã nhặn, không thô lỗ, không cộc cằn.
4. -Pháp thứ tư không nói xấu người khác sau lưng.
5. -Pháp thứ năm là người sống với bàn tay rộng mở, ban bố, quãng đại không bỏn xẻn.
6. -Pháp thứ sáu là chân thật trong lời nói.
7. -Pháp thứ bảy là không chất chứa sân hận.
Đức Phật cho biết với bảy pháp này dẫn đến ngôi vị Thiên chủ. Tuy cứu cánh của đạo Phật là sự giải thoát nhưng không có nghĩa là đạo Phật cho rằng hướng đến việc tái sanh vào một cõi giới tốt đẹp là hoàn toàn không khả dĩ, không đáng yêu thích. Nếu chúng ta sanh ra đời với nhiều phước báu, có tài sản, có trí tuệ, hoặc có địa vị cao như một vị Chuyển luân Thánh vương, hoặc ít phước báu hơn như làm một người có địa vị trung trung bình, đủ ăn đủ mặc hoặc có tiền bạc dư giả chút đỉnh để làm những việc khác và được mọi người quý trọng trong xã hội. Đó cũng là một điều khả dĩ, đáng yêu thích.
Ngôi vị Thiên vương, địa vị Thiên chủ hay chúng sanh trong các cõi trời, cõi an lạc, được xem là một quả vị của phước báu sanh ra do thiện nghiệp -như chúng sanh trong cõi trời, cõi người. Sanh thiên và trở thành Thiên chủ, viễn cảnh này tuy không được một người Phật tử tầm cầu đạo giải thoát ao ước, mong cầu, tuy nhiên, nếu lấy những giá trị trong cuộc sống trần ai để làm chuẩn mực so sánh thì cuộc sống trên thiên giới có những giá trị nhất định mà chúng ta không thể phủ nhận được. Chúng ta đừng quên rằng mặc dù Đức Phật sách tấn chúng ta tu tập giải thoát, nhưng Ngài có những lời dạy mà chúng ta không thể không suy nghĩ. Ví dụ khi đề cập đến những hạnh phúc của người cư sĩ, Đức Phật dạy rằng không nợ nần sẽ sống hạnh phúc, hay một người có thể hượng thụ tài sản do chính mình làm ra bằng mồ hôi nước mắt tức là bằng nghề lương thiện là hạnh phúc, và Đức Phật tán thán điều đó. Vì vậy, với một cảnh giới như cõi trời, chúng ta không thể phủ nhận rằng đó là một trong những hình ảnh đẹp. Ngài Hoà thượng Hộ Tông, một trong những vị danh tăng, có tâm tu tập giải thoát rất mạnh, vẫn có lời dạy dành cho những người cư sĩ Phật tử, khuyến khích họ tu tập bố thí trì giới để sanh về cõi trời.
Ỏ đây Đức Phật dạy một điều khiến cho Phật pháp có một sắc thái rất khác biệt so với các tôn giáo khác. Các tôn giáo khác và các niềm tin dân gian chỉ ra rất nhiều con đường đưa đến thiên giới . Họ tin vào những vị thần, cầu khẩn thần linh hoặc phúc phần để được cứu rỗi, hoặc học phép tiên… Ở tại Ấn Độ người ta nói đến việc con người sanh về cõi trời nhờ hiệp thông với Thượng đế hoặc cúng tế, trì tụng thần chú v.v… để nhờ đó mà con người đến với Chư thiên, Phạm thiên.
Tuy nhiên Đức Phật lại dạy rất rõ. Ngài dạy rằng nếu sanh thiên là một quả tốt ở trong thế gian này thì quả tốt đó vốn dĩ là phải do thiện nghiệp. Một quả phúc của thiện nghiệp, tinh tấn không chểnh mảng – ở đây được hiểu như là một cố gắng để sanh thiên. Nếu chúng ta đọc bảy pháp dẫn đến ngôi vị Thiên chủ, chúng ta dễ dàng thấy rằng chúng đều đòi hỏi sự cố gắng phấn đấu của bản thân mình. Phần lớn là hiếu hạnh, là từ tâm. Đa số chúng ta đều thương cha, thương mẹ nhưng để giữ được cho tròn sự hiếu hạnh, chúng ta cũng phải cố gắng. Có cố gắng chúng ta mới có thì giờ nghĩ nhiều đến cha mẹ, nếu không thì tâm chúng ta cũng bềnh bồng trôi giạt về phương trời này hay phương trời khác. Một ví dụ khác về lời nói chân thật hay sống với bàn tay rộng mở, để sống được như vậy chúng ta cũng phải phấn đấu. Khi chúng ta không có nhiều điều kiện để làm việc phước thiện, chúng ta thường an ủi rằng khi nào mình trúng số, mình sẽ có thể làm điều này hay điều nọ. Trong trường hợp này chúng ta chưa thực hiện được yếu tố mà Đức Phật gọi là tinh cần hay nỗ lực. Sự tinh cần nỗ lực này không phải là những gì được cho là cao xa mà hoàn toàn dựa trên những cái bình thường, rất bình thường trong đời sống con người. Ví dụ một ông Bà-la-môn có một miếng vải giống như một chiếc khăn choàng quấn trên thân của mình, đến chùa nghe Đức Phật thuyết Pháp, ông hiểu được giá trị của sự quảng đại của việc bố thí và sau vài lần do dự cuối cùng ông quyết định cúng dường tấm vải ấy. Chúng ta đọc kỹ lại câu chuyện của ông mới thấy rằng tuy tấm khăn choàng có giá trị nhỏ, nhưng ở đó cần cả một sự cố gắng nổ lực để cúng dường chứ không đơn giản muốn cho đi là cho.
Dĩ nhiên trong số chúng ta cũng có một số người tương đối khá giả, dư ăn dư mặc, khi bố thí một vật gì đó không cần phải cố gắng nhiều. Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng, sở dĩ hiện nay chúng ta có điều kiện làm được việc bố thí, ban bố hiến tặng một cách thoải mái đó cũng là nhờ chúng ta cũng đã làm chúng rất nhiều và làm với sự cố gắng trong những kiếp quá khứ. Đức Phật dạy cho Hoàng thân ở tại Vesali rằng con đường dẫn đến thiên giới không phải là do tình cờ mà được thực hiện bằng thiện pháp. Thực hiện thiện pháp mà Đức Phật dạy đòi hỏi chúng ta phải tinh tấn, nỗ lực bởi vì nó đi ngược với bản chất bình thường của chúng ta. Chúng ta không quen cung kính, chúng ta quen cao mạn, bây giờ muốn thể hiện sự cung kính đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu, phải có sự hiểu biết. Chúng ta không quen phụng dưỡng mẹ, phụng dưỡng cha, bây giờ muốn được thiện pháp này, chúng ta phải có sự phấn đấu. Chúng ta không quen mở rộng bàn tay giúp đỡ người khác, không quen nói lời chân thật, do vậy chúng ta phải nỗ lực, phấn đấu để làm được những điều này.
Một lần nọ, Đức Phật dạy rằng một người tu tập đối với bên ngoài không có điều gì lợi cho bằng trong tự thân mình không có sự dễ duôi, không chểnh mảng. Điều này thật sự dễ hiểu vì nỗ lực là một thiện pháp. Không có sự cố gắng nỗ lực, chúng ta không tạo được những thiện nghiệp. Đức Phật dạy rằng không tụng đọc lâu ngày làm nhớp Kinh, để Kinh để sách bị đóng bụi. Thiện pháp lâu ngày không làm thì thiện tâm bị mai một, phiền não sẽ khởi sanh. Một khi chúng ta ý thức được điều đó thì phiền não đã bao trùm lấy chúng ta. Từng bước một, Đức phật cho chúng ta thấy cảnh giới mà ta hướng đến – gọi là thiên đàng – quả thật không thành tựu không phải do sự ngẫu nhiên hay do một sự đãi ngộ mang tính cách tình cờ. Chúng ta có được thiện pháp đó trong kiếp sau là nhờ ở những thiện sự tinh cần nỗ lực làm trong kiếp sống này.
Năm 1991 chúng tôi chọn một nơi để hành hạnh đầu đà ở một vùng dọc theo sông Cửu Long. Lúc đó vào mùa mưa, chúng tôi ở một ngôi chùa tại Khuonchin biên giới Thái Lan với Lào. Đứng bên này có thể thấy Lào bên kia. Bên này biên giới có một trại tỵ nạn của những người Lào và một ít người Việt Nam vượt biên. Vì chúng tôi là nhà sư Việt Nam nên một vài vị sĩ quan trong trại tỵ nạn thỉnh thoảng có mời chúng tôi vào nói chuyện. Chúng tôi nghe vài vị Phật tử trong trại nói rằng những người truyền đạo Tin Lành thường xuyên đến hỏi nếu quý vị tin Đức Phật cứu rỗi thì Đức Phật có đưa quý vị lên thiên đàng hay không? Và nếu quý vị tin rằng tin vào Phật sẽ chứng được Niết bàn thì Niết -bàn là gì? Những người này đã không trả lời được. Thật ra quan niệm sanh về thiên đàng, sanh về cõi trời là một quan niệm hết sức dễ dàng cho những người thuộc các tôn giáo khác để hình dung, nhưng quan niệm về Giác ngộ, Giải thoát lại khó lãnh hội và không phải ai cũng có thể trình bày được. Chúng tôi đã dành hai giờ để nói chuyện với các vị ấy. Đức Phật không xem cõi trời là một cứu cánh nhưng Ngài cũng giới thiệu những pháp tác thành quả vị ở thiên giới và pháp đó phải do chúng ta nỗ lực tinh cần. Tại sao một người phung dưỡng cha mẹ lại tác thành quả vị sanh về thiên giới? Tại sao một ngưòi chân thật lại tác thành quả vị? v.v… Nếu chúng ta thấy được những điều này là thiện pháp vì những nỗ lực đó nâng cao phẩm chất của đời sống, chúng ta mới hiểu được tại sao Đức Phật dạy chúng ta những điều này .
Ở một đoạn Kinh khác Đức Phật cho biết rằng trong cái nhìn của Ngài, tức là Phật nhãn, thiên giới chỉ đạt được từ sự nổ lực của việc hành thiện pháp. Thiên giới được các đạo giáo khác đề cập đến nhiều, cho rằng đã có những tín đồ sanh về Thiên giới là do đặt niềm tin vào sự cứu rỗi của những vị thần của họ. Điều này cho chúng ta thấy rằng cảnh an lạc của Thiên đàng mà những người đó đạt được không do nỗ lực, điều đó dẫn ta xa với lý nhân quả. Chẳng hạn nếu có ai nói với chúng ta rằng chỉ cần cải tán mồ mả ông bà, con cháu sẽ làm ăn khá hơn; cho dù những việc như thế này có bằng chứng cụ thể đi nữa, niềm tin đó đã khiến chúng ta quên đi bao nhiêu phước hạnh, bao nhiêu thiện pháp mà chúng ta đã từng nỗ lực tự thân để làm trong quá khứ để ngày nay mới mang lại một quả báu tốt đẹp như vậy.
Ở đây khi học bảy pháp sanh Thiên, chúng ta thấy rõ một điều để thực hiện được những thiện pháp trong đời sống này, con người không thể sống buông thả dễ duôi, rõ ràng là như vậy. Nếu chúng ta có thói quen nói lời chia rẽ, nói để mà bôi bác người khác, nếu chúng ta không cố gắng thì sẽ không kiềm chế được lời ăn tiếng nói của mình. Chúng ta có nhiều lý do để phiền hà người khác sau lưng là vì sao? Vì nó đã trở thành một thói quen bình thường, và chúng ta phải cố gắng để khắc chế những ác pháp như vậy nếu chúng ta muốn có được thiện pháp.
Có đọc những thiện pháp này rồi chúng ta mới hiểu tại sao Đức Phật đặc biệt đề cập đến pháp không dễ duôi hay không chểnh mảng, không buông thả, hay tinh cần chuyên chú để thành tựu thiện pháp. Thiện pháp được thành tựu thì quả của thiện pháp mới được thành tựu. Nỗ lực, không dễ duôi hay không chểnh mảng là một pháp quan trọng. Chúng ta thường nghĩ rằng để sanh thiên chúng ta cần phải làm pháp sự lớn như dựng một đàn tràng, dựng chùa, đúc tượng tạo công đức rất lớn mà quên rằng nỗ lực tự thân cũng là một thiện pháp không nhỏ vì nó đi ngược lại những điều bình thường của con người.
Chúng ta hãy đọc lại bảy pháp sanh thiên:
1) Phụng dưỡng cha mẹ,
2) Lễ kính bậc trưởng thượng,
3) Nói những lời hòa ái,
4) Không bao giờ nói xấu ai sau lưng,
5) Làm gia chủ với tâm không tham lam keo kiệt, tay rộng mở buông xả những gì thuộc về mình, hoan hỷ rộng lượng, ân cần với người cầu xin, hoan hỷ trong sự bố thí.
6) Nói sự thật.
7) Dứt bỏ sân hận, nếu sân hận nổi lên xin mau buông bỏ.
Đọc kỹ để tìm những pháp dễ thực hiện và những pháp khó thực hiện trong đời sống hằng ngày. Câu rất trả lời rất dễ dàng. Không chất chứa sân hận là một điều khó, nói lời hoà ái cũng là một điều khó, biết khiêm cung trên kính dưới nhường cũng là điều khó. Các thiện pháp mà trần gian thường nói là thiện pháp dễ làm của những người tiền của dư giả, còn những thiện pháp chúng ta phải nỗ lực tiến đến, nếu không nỗ lực sẽ không làm được. Một số người thuộc tôn giáo khác có thể nghĩ rằng thật lạ khi nói giữ tâm không sân hận được sanh thiên, có thể họ cho đó là chuyện “không có gì phải ầm ĩ” nhưng với bản thân chúng ta đòi hỏi sự phấn đấu cao. Phấn đấu nhiều để nói lời hoà ái, để nói lời chân thật, để không nuôi dưỡng niềm hiềm hận, để chúng ta sống không nói xấu ai sau lưng v.v… Chính những thiện pháp này mời gọi sự cố gắng của mình, do đó đạt thành quả vị thù thắng.
Chuyển biên: Minh Hạnh
Biên tập: Panna Dipa Tuệ Đăng
Theo: phapluan.net
You must be logged in to post a comment.