Ba phương diện của Pháp

Ba phương diện của Pháp (Dhamma)

Ba phương diện của Pháp (Dhamma)

Ba phương diện của Pháp

Ba phương diện của Pháp

Có ba phương diện hay ba bước quan trọng của việc thực hành Pháp (dhamma).

  1. Thứ nhất là học pháp (pariyatti), tức là phải có kiến thức đầy đủ về lời dạy của Đức Phật. Những người không nghe hay không đọc những lời dạy của bậc Giác ngộ không thể nào hiểu được Pháp và tính chất phổ quát của nó. Họ sẽ hiểu Pháp chỉ như “Phật giáo”. Họ sẽ xem Pháp như một tín ngưỡng, tín điều hay nghi thức tôn giáo, như chính bản thân họ từng bị lôi cuốn vào. Một sutavā [1] hay bậc thanh văn là người đã được nghe và sẽ hiểu pháp (dhamma) như một quy luật của phố quát, như sự thực hay tính chất phổ quát, không giới hạn cho bất kỳ một bộ phái hoặc cộng đồng nào cả. Sau khi đã nghe, một “sutavā” có thể thực hành và áp dụng nó vào cuộc sống, và vì thế vị ấy là người thực sự may mắn so với một người vô văn phàm phu (assutavā), tức là người không nghe gì về sự thực phổ quát (hay Pháp – dhamma), do đó vẫn luôn bị lầm lẫn.

Nghe hay đọc những lời Pháp thuần khiết là điều rất tốt vì nó cho bạn nguồn cảm hứng và sự hướng dẫn để khởi sự việc thực hành. Tuy nhiên, nếu bạn vẫn chỉ thỏa mãn với kiến thức do nghe ấy mà không chịu thực hành, vì giờ đây bạn cảm thấy như mình đã biết đủ mọi thứ ở mức tri thức rồi, thời kiến thức tự nó sẽ trở thành chẳng khác gì một trò chơi phục vụ tín ngưỡng. Thực sự bạn không biết gì cả bởi vì kinh nghiệm trực tiếp đã vắng mặt. Bạn chỉ chấp nhận sự thực mà không thực hành, điều này thậm chí có thể trở thành một chướng ngại cho sự giải thoát . Bởi thế mọi sutavā (thinh văn) đều phải bước vào thực hành.

2. Patipaṭṭi, bước kế tiếp, là thực hành Pháp (dhamma). Trong một bài kinh khác Đức Phật dạy: Supaṭipanno Bhagavato Sāvaka-saṅgho.

Chư Tăng, thinh văn đệ tử Phật, là các bậc thiện hạnh. Ở đây chữ sāvaka đồng nghĩa vớisutavā – thinh văn hay bậc nghe pháp đầy đủ. Do đó, sāvaka-saṅgho có nghĩa: Tăng (saṅgha) là các bậc thinh văn (sāvaka), đã được nghe lời dạy bảo của Đức Phật và bắt đầu bước đi trên đạo lộ một cách chân chính – đó là “supaṭipanno“, thiện hạnh hay khéo thực hành. Bước đi trên đạo lộ này các vị sẽ đạt đến đích cuối cùng của sự giải thoát viên mãn. Hành pháp (patipaṭṭi) sẽ làm được điều này, chứ không phải một mình học pháp (pariyatti). Với pháp học (pariyatti) bạn hiểu rằng là một con người, một thành viên của xã hội, bạn phải sống một cuộc sống đạo đức trong gia đình bạn và trong xã hội. Nếu bạn khuấy động sự bình yên và hòa hợp của người khác, làm thế nào bạn có thể cảm nghiệm được sự bình yên và hòa hợp trong chính mình? Vì thế bạn tránh mọi hành động bằng thân và khẩu (lời nói) nào làm tổn thương và có hại cho người khác. Bạn tránh sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời thô ác, nói lời chia rẽ hoặc những lời vô ích, vô nghĩa phí thì giờ của bạn và phí thì giờ của người khác. Bạn cũng hiểu rằng bằng cách tránh những hành động bất thiện này bạn thực sự làm ơn cho bản thân mình chứ không phải cho người khác. Vì sao? Những hành động bất thiện này chắc chắn không thể được thực hiện nếu như bạn không phát sinh ô nhiễm trong tâm; như tham ái, sân hận, tự ngã, và sợ hãi. Khi bạn làm như thế, bạn đã tự làm hại mình trước. Vì lý do đó bạn hiểu được tầm quan trọng của giới – sīla.

Tuy nhiên, ngay cả với sự hiểu biết trên phương diện tri thức của bạn là thế, việc giữ giới vẫn trở nên khó khăn nếu không kiểm soát được tâm. Do đó, bạn phải thực hành định tâm (samādhi), nghĩa là bạn phải làm sao làm chủ được tâm của mình. Trong một vài trường hợp, chẳng hạn như ở môi trường của một khóa thiền vipassanā thế này, không phạm giới là điều rất dễ, song khi đã bước lên đạo lộ (giải thoát ) bạn buộc phải phát triển định tâm hay làm chủ tâm. Có như thế bạn mới trở thành bậc “thiện hạnh” supaṭipanno. Hiện giờ bạn đang thực hành pháp “niệm hơi thở” – Ānāpāna, và đây là “hành pháp” – paṭipatti.

Ba phương diện của Pháp (Dhamma)

  1. Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách, nếu không sự kiểm soát này sẽ không đưa bạn đến được bước thứ ba của sự “thông đạt” – paṭivedhana (thường dịch là pháp thành). Paṭivedhana nghĩa đen là “chọc thủng, thể nhập“. Định (samādhi) của bạn sẽ tập trung trên thực tại của tự thân, đó là các hiện tượng tâm – vật lý hay danh – sắc của bạn, bởi vì hơi thở có liên quan đến cả tâm lẫn thân. Tuy nhiên, khi bạn tiếp tục tiến tới bạn sẽ để ý thấy là bạn có cả một kho chứa lớn những bất tịnh tích lũy ở bên trong. Mặc dù bạn cố gắng để kiểm soát những hành động về thân và khẩu của mình, tuy thế thỉnh thoảng bạn vẫn bị những bất tịnh này áp đảo. Do đó, bạn phải đi vào chiều sâu của thực tại để nhổ bật những bất tịnh này ra.

Paññatti (chế định) là sự thực bề ngoài: sự vật có vẻ như là hay, dường như là vậy chứ không phải sự vật đúng như nó đang là. Muốn chứng kiến sự thực cùng tột bạn phải loại bỏ bức màn của sự thực chế định này, bạn phải chọc thủng, thể nhập và tách rời nó ra. Đây là Minh sát (vipassanā). Trong một bài kinh khác điều này được nói tới như:

Paññatti ṭhapetvā visesena passatī’ti vipassanā.

Paññatti ṭhapetvā có nghĩa là “sau khi đã loại bỏ sự thực chế định hay sự thực bên ngoài”. Lúc đó minh sát (vipassanā) thấy (passati) mọi vật (các pháp) theo đặc tính (visesena) của chúng. Nhờ chọc thủng, thể nhập sâu vào sự thực bề ngoài, kiên cố và mạnh mẽ, những sự thực phải được mổ xẻ ra, làm cho tan ra, bạn đi vào sự thực tối hậu của những gì bạn thường gọi là “tôi”, “của tôi” thực chất chỉ là cấu trúc vật lý, cấu trúc tâm lý và các nội dung tâm trí (sắc pháp tâm và sở hữu tâm). Sau khi chọc thủng toàn bộ lãnh vực của tâm và vật chất hay danh và sắc bạn có thể chứng kiến những gì vượt qua đó – hay nói khác hơn bạn thấy được sự thực tối hậu của Niết Bàn, sự thực hay chân đế vĩnh cửu, vượt ngoài toàn bộ lĩnh vực của tâm và vật chất. Việc thực hành tuệ thể nhập hay chọc thủng (paṭivedhana) này, vốn làvipassanā, sẽ dẫn đến mục tiêu cuối cùng của sự giải thoát viên mãn.

Do đó, phải hiểu rằng mục đích của việc nghe kinh trong suốt khóa thiền không chỉ để học pháp (pariyatti). Cho dù tri kiến có tính lý thuyết này có thể hữu ích như thế nào, thì ba bước – học pháp (paṭivedha), hành pháp (paṭipatti) và thể nhập hay thông đạt pháp (paṭivedhana) cũng phải được thực hiện. Ba bước này bao trùm toàn bộ lãnh vực của tuệ (paññā).

Trong những khóa thiền mười ngày các bạn đã nghe nói đến ba giai đoạn của tuệ (paññā). Suta-mayā paññā hay văn tuệ là những gì bạn đã được nghe. Nó là trí tuệ của người khác, không phải của bạn. Cintā-mayā paññā hay tư tuệ là sự suy luận dựa trên lý trí, sự hiểu biết của bạn về trí tuệ của người khác. Cả hai đều tốt, nhưng chỉ khi bạn thực hiện bước thứ ba của tu tuệ – bhāvanā-mayā paññā, để tự mình chứng kiến sự thực. Sự chứng kiến hay minh quán thường xuyên sẽ mở rộng trí tuệ của bạn ra và chính kinh nghiệm trực tiếp này sẽ đưa bạn đến mục tiêu cuối cùng.

Truyền thống Ấn Độ đã dùng những từ khác để chỉ ba loại sự thực này. Thứ nhất là Thanh đế – sadda sacca, sự thực của lời nói. Những người cuồng tín cho rằng sự thực của kinh điển phải được chấp nhận cho dù không hiểu nó. Tất nhiên, khi chứng kiến hay kinh nghiệm, điều đó có thể là thực, song chúng vẫn chỉ do nghe và do chấp thủ, chứ không phải là sự thực tự họ chứng nghiệm. Kế tiếp là Tỷ lượng đế – anumāna sacca, sự hiểu biết trên phương diện tri thức do suy luận. Nhìn khói suy ra có lửa. Bạn không thấy lửa thực sự mà chỉ suy luận ra. Cả hai loại sự thực này có thể là ảo tưởng, ảo giác.

Thứ ba là Tự chứng đế – paccakkha sacca, sự thực mà bạn tự mình chứng kiến, tự mình trực nhận. Toàn bộ lời dạy của bậc giác ngộ là để khích lệ bạn làm điều này. Tin vào những lời dạy của Đức Phật là điều thiết yếu, song trừ phi bạn tự mình chứng nghiệm sự thực, bằng không bạn chẳng thể nào giác ngộ. Nghe và hiểu trên phương diện tri thức là rất hữu ích, nhưng đồng thời mọi lời dạy cũng phải được tự chứng bởi những người có nguyện vọng muốn đạt đến giải thoát . Đây là những gì được dạy trong kinh Niệm Xứ – Satipaṭṭhāna Sutta, và mỗi lời dạy của bài kinh sẽ truyền cảm hứng và hướng dẫn bạn (trên bước đường tu tập giải thoát).

Ba phương diện của Pháp (Dhamma)

Trích: Tứ Niệm Xứ Giảng Giải (thiền sư Goenka )
Dịch giả: Pháp Thông

nguồnL trungtamhotong.org

Đọc thêm các bài liên quan:

KHÁI NIỆM VÀ THỰC TẠI

Khái niệm còn gọi là pháp Tục đế

Thực tại hay còn gọi là pháp Chân đế

Ba phương diện của Pháp (Dhamma)

Visits: 922